Nhảy đến nội dung

Quan tâm hơn nữa cơ chế, chính sách tài chính trong quản lý tài nguyên khoáng sản

Nghe bài viết Play Pause
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong quản lý tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản chưa được khai thác hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao; vẫn đang còn xuất khẩu thô là chủ yếu.



Khai thác khoáng sản nhiều nơi để lại hậu quả xấu nghiêm trọng cho môi trường, cơ sở hạ tầng và trật tự an ninh xã hội. Các vấn đề liên quan đến cơ chế chính sách tài chính đối với khoáng sản nhìn chung còn chậm được bổ sung, sửa đổi. Khi Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì một số vấn đề lớn cần đầu tư nghiên cứu để báo cáo cấp thẩm quyền quyết định như nghiên cứu các hình thức sở hữu tài nguyên khoáng sản, đổi mới quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản và nghiên cứu để điều chỉnh chính sách thu theo khung thuế suất quy định tại Pháp lệnh Thuế Tài nguyên... cho phù hợp.



 Theo phản ánh của nhiều địa phương và thực tế kiểm tra cho thấy, thuế tài nguyên, thuế xuất khẩu khoáng sản còn thấp, nhất là đối với một số loại khoáng sản quan trọng cần hạn chế sản lượng khai thác và hạn chế tiến tới không xuất khẩu dưới dạng nguyên liệu thô hoặc tinh quặng như các khoáng sản kim loại:  sắt, chì - kẽm, đồng, mangan, titan... (các khoáng sản này thuế suất thuế tài nguyên là 2% và thuế xuất khẩu là 5-10%). Thêm vào đó theo quy định hiện hành thì thuế tài nguyên khoáng sản được tính trên sản lượng khoáng sản thương phẩm thực tế khai thác được và theo giá bán. Khi áp dụng tính thuế, cách tính thu thuế thường khác nhau do kê khai chi phí đầu vào khác nhau. Do thuế và phí liên quan tài nguyên khoáng sản còn thấp nên một số địa phương đã áp dụng hình thức phụ thu /1tấn sản phẩm hoặc yêu cầu doanh nghiệp đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, ủng hộ địa phương... theo cách thức khác nhau, nhiều khi gây khó dễ cho doanh nghiệp. Cho đến nay ngân sách Nhà nước đã đầu tư thăm dò, đánh giá trữ lượng trên 260 mỏ khoáng sản các loại. Phần lớn các mỏ này đã được đưa vào khai thác có hiệu quả hoặc chuẩn bị đầu tư đưa vào khai thác, nhưng vấn đề hoàn trả vốn ngân sách Nhà nước đã đầu tư cho thăm dò mỏ chưa được thực hiện. Trong khi đó ngân sách đầu tư cho công tác điều tra cơ bản địa chất nhằm tiếp tục cung cấp các tài liệu làm cơ sở xây dựng các quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội thì không bảo đảm và ngày một thu hẹp do tăng giá, tăng lương.



Nhằm khắc phục các tồn tại nêu trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thống nhất với Bộ Tài chính chỉ đạo Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam khẩn trương thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:



1. Trong năm 2007, phối hợp cùng Vụ Chính sách thuế - Bộ Tài chính rà soát các chính sách thu về thuế, phí, lệ phí liên quan đến thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản; nghiên cứu báo cáo cơ quan có thẩm quyền điều chỉnh chính sách thu theo khung thuế suất quy định tại Pháp lệnh Thuế tài nguyên khoáng sản đối với các dự án đã cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản;



2. Chủ trì xây dựng Đề án "Nghiên cứu các hình thức sở hữu tài nguyên khoáng sản và đổi mới quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập". Hoàn thành xây dựng đề cương Đề án để trình Bộ Tài nguyên và Môi trường trong tháng 3 năm 2008;



3. Tổng hợp kết quả điều tra, thăm dò địa chất, khoáng sản; căn cứ vào các quy hoạch khoáng sản để rà soát và đề xuất các khoáng sản cần hạn chế sản lượng khai thác, hạn chế xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô, theo tinh thần Nghị quyết số 07/2007/QH 12 của Quốc Hội về kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2008. Hoàn thành báo cáo Bộ Tài nguyên và Môi trường trong năm 2008.



Thực hiện tốt các nhiệm vụ nêu trên trong năm 2008 là thiết thực góp phần tăng cường hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tài nguyên khoáng sản, góp phần tăng thu ngân sách, có điều kiện để hỗ trợ trực tiếp, nâng cao đời sống nhân dân các địa phương nơi có mỏ khoáng sản.