Nhảy đến nội dung

Nhìn lại một năm Luật Khoáng sản (sửa đổi) được thi hành

Nghe bài viết Play Pause

Ông Trần Xuân Hường, Cục trưởng Cục Địa chất & Khoáng sản Việt Nam (ĐC&KSVN) cho rằng: Luật Khoáng sản (sửa đổi) phù hợp với đường lối cải cách hành chính của Chính phủ, đáp ứng được các yêu cầu của cải cách. Truớc hết, Luật đẩy mạnh sự phân cấp gắn liền với quyền hạn và trách nhiệm của các Bộ, ngành Trung ương và UBND các địa phương.



Trong Luật (sửa đổi) một số điều của Luật Khoáng sản, sự phân cấp khẳng định rõ trách nhiệm của Bộ TN&MT, Bộ Công nghiệp (CN), Bộ Xây dựng (XD) và các Bộ, ngành liên quan như Tài chính (TC), Kế hoạch - Đầu tư (KH- ĐT) và đặc biệt nhấn mạnh sự phân cấp và trách nhiệm của UBND các địa phương. Theo đó, UBND các địa phuơng được cấp phép tận thu KS tại các khu vực mỏ đã đóng cửa để thanh lý và cấp phép toàn bộ KS làm vật liệu xây dựng thông thường (trước đây Trung ương phải xem xét, phê duyệt rồi mới quay trở về địa phương cấp phép), đáp ứng kịp thời bước phát triển sản xuất của các doanh nghiệp (DN), các địa phương.



Luật chấn chỉnh việc cấp phép KS tận thu có lúc, có nơi bị lạm dụng, chia cắt tài nguyên KS làm cho việc quản lý khó khăn, phức tạp trong khi Nhà nước và địa phương thất thu ngân sách. Luật cũng thúc đẩy việc lập quy hoạch tài nguyên KS bao gồm: quy hoạch điều tra cơ bản địa chất về TNKS do Bộ TN&MT chủ trì và quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến, sử dụng KS do Bộ CN, Bộ XD chủ trì. Luật Khoáng sản (sửa đổi) bổ sung một số điều của Luật khoáng sản khẳng định trình tự, thủ tục thực hiện công tác quản lý Nhà nuớc về TNKS, nêu cao vai trò, trách nhiệm các Bộ, ngành, địa phuơng. Yêu cầu về việc khoanh định khu vực cấm hoạt động KS, sử dụng KS một cách hợp lý, tiết kiệm, gắn với bảo vệ môi trường để phát triển bền vững được đề cập nhiều hơn trong Luật Khoáng sản (sửa đổi).



Qua 1 năm thực hiện Luật Khoáng sản (sửa đổi), cái “được” lớn nhất theo ông Hường là đã hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật. Ngay sau khi Quốc hội thông qua Luật, Bộ TN& MT đã có dự thảo Nghị định 160 hướng dẫn thi hành Luật trình Thủ tuớng Chính phủ phê duyệt ngày 25/12/2005. Tiếp đó, Bộ có Thông tư 01 hướng dẫn bổ sung cụ thể một số điểm trong Nghị định 160. Trong quá trình thực hiện Luật, cái “vướng” là quy hoạch chưa được lập nhưng Bộ TN&MT đã có những văn bản trình Thủ tướng Chính phủ tháo gỡ kịp thời như: Công văn 570 tháo gỡ vuớng mắc trong hoạt động KS, Văn bản số 732 về quản lý KS vàng (KS đặc thù có nhiều phức tạp).



Bộ TN&MT còn tích cực chỉ đạo Cục ĐC&KSVN bàn giao toàn bộ cơ sở dữ liệu ĐCKS cho UBND các tỉnh. Năm 2005 và đầu năm 2006 Cục ĐC&KSVN đã thành lập Báo cáo tình hình ĐCKS cho từng tỉnh để trên cơ sở đó, các tỉnh biết được nguồn TNKS trên địa bàn tỉnh nhằm tăng cường quản lý và lập các quy hoạch. Do chưa có quy hoạch về ĐCKS, Bộ TN&MT đã chỉ đạo khoanh định các diện tích để đưa vào diện thăm dò hoặc được khai thác làm cơ sở trình Thủ tướng Chính phủ để cấp phép. Đến nay, Bộ CN đã trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch về sắt, chì kẽm đến năm 2015, định hướng đến năm 2025, đang tích cực quy hoạch KS titan, bauxit... Trong công tác truyên truyền phổ biến Luật và hướng dẫn, tạo điều kiện cho các Sở TN&MT hoạt động, Cục ĐC&KSVN đã kết hợp với Cục Bảo vệ môi truờng, Cục Quản lý Tài nguyên nước và hoạt động theo yêu cầu của từng địa phương. Đến nay, Cục ĐC&KSVN đã hoàn thành việc lập quy hoạch điều tra cơ bản địa chất TNKS để Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trên cơ sở quy định của Luật, việc cấp phép hoạt động KS được thực hiện khẩn trương. Số lượng giấy phép cấp 9 tháng năm 2006 gần gấp đôi so với cả năm 2005.



Theo Cục truởng Trần Xuân Hường, cái “chưa được” qua 1 năm thi hành Luật là: do quy hoạch KS làm chậm nên Bộ TN&MT phải tháo gỡ bằng cách trình Thủ tướng Chính phủ phê duỵệt trước các khu vực có thể đưa vào thăm dò, khoanh định vùng cấm khai thác. Cũng vì sự chậm trễ này mà việc xác định các khu vực cấm hoạt động KS chưa đạt yêu cầu, kéo theo sự phiền hà trong việc giải quyết các hồ sơ phải xin ý kiến của các Bộ. Các cơ chế về tài chính, cơ chế đấu thầu của Bộ TC, Bộ KH-ĐT đối với KS tiến hành chậm, ảnh hưởng tới công tác quản lý TNKS, gây bức xúc cho các địa phuơng vì kinh phí triển khai không có, việc trích nộp cho ngân sách địa phuơng hạn hẹp. Khoáng sản là tài sản quốc gia nhưng vịệc định giá chưa đúng với ý nghĩa nên nhiều địa phuơng có khoáng sản đang “mắc nạn” vì phải chịu đựng sự ô nhiễm về môi truờng, giao thông bị tàn phá, trật tự an toàn xã hội bị xáo trộn.



Nhiều địa phuơng trữ lượng KS có hạn trong khi nhiều DN có nhu cầu tham gia khai thác KS nên phải lựa chọn bằng cách thông qua đấu thầu. Vì thế, cần có các cơ chế mở, tạo điều kiện cho các DN tham gia. Mặt khác, chỉ riêng việc cấp phép nhanh chưa đủ, phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động KS. Tiến độ cấp phép nhanh nhưng so với quy đinh còn nhiều vướng mắc, chưa có quy hoạch KS cũng như vùng cấm nên vẫn kéo dài thời gian, chưa tạo ra bước đột phá về thủ tục hành chính như yêu cầu đặt ra. Công tác tuyên truyền phổ biến Luật KS thời gian qua còn hạn chế do không có kinh phí. Cục ĐC&KSVN dự kiến tổ chức các cuộc Hội thảo về Luật tại ba miền đất nước, nhưng với lý do về kinh phí nên chưa thực hiện được, Cục phải liên hệ với từng tỉnh để “đánh lẻ” nên kết quả còn hạn chế. Nhìn chung, Luật Khoáng sản (sửa đổi) tuy đã đạt được một số kết quả nhưng còn xa so với yêu cầu, hiệu quả còn hạn chế. Mặt khác, đội ngũ cán bộ làm công tác KS ở các địa phương quá mỏng nên không tránh khỏi những bất cập trong việc quản lý TNKS, thực thi và đưa Luật vào cuộc sống.

Tác giả bài viết:  CIREN