Nhảy đến nội dung

Những nguy cơ và thách thức đối với bảo tồn đa dạng khu thực vật ở VQG Xuân Sơn

Nghe bài viết Play Pause
Vườn Quốc gia Xuân Sơn nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, vị trí giáp ranh giữa 03 tỉnh: Phú Thọ, Hòa Bình và Sơn La. Vị trí Vườn nằm ở đúng điểm cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Vườn Quốc gia Xuân Sơn là di sản thiên nhiên đặc sắc của tỉnh Phú Thọ và của cả nước. Vẻ đẹp hoang sơ cùng với nỗ lực tuyệt vời của con người trong việc giữ gìn nơi đây đã tạo nên một bức tranh lôi cuốn ít nơi nào sánh kịp dành cho những du khách thích khám phá vẻ đẹp tự nhiên.
Vườn Quốc gia Xuân Sơn nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật và động vật Mã Lai và Hoa Nam. Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha; phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan. 
Trước khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên (năm 1986) và Vườn Quốc gia (năm 2002) thì hiện tượng chặt phá rừng, khai thác lâm sản diễn ra thường xuyên đã làm cho chất lượng rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Từ khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên, thảm thực vật ở đây đã được bảo vệ, tình trạng phá rừng không còn, song việc khai thác nguồn tài nguyên phi lâm sản (song mây, dược liệu, hoa quả rừng,…) vẫn diễn ra hàng ngày đã làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh học. 
Có rất nhiều thách thức và nguy cơ làm suy giảm đa dạng sinh học khu hệ thực vật VQG Xuân Sơn. Tuy nhiên do đặc thù điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi đây dẫn đến những nguy cơ, thách thức trong công tác bảo tồn đa dạng khu hệ thực vật chủ yếu là:
 
Một là khai thác lâm sản trái phép: Hiện nay có khoảng hơn 3000 dân sinh sống ngay trong vùng lõi của VQG. Phần lớn họ là dân tộc thiểu số (Dao, Mường..) cuộc sống khó khăn, thu nhập bình quân cả hộ gia đình chưa đạt 700.000 đồng/ năm. Một số thôn còn chưa có điện lưới quốc gia, nên một phần vật chất cần thiết cho cuộc sống của dọ còn dựa vào rừng. Hơn nữa, tổ tiên con người chỉ biết vào rừng để lấy thức ăn, nước uống. Do vậy, không thể tránh khỏi tình trạng người dân vào rừng khai thác lâm sản trái phép và tự phát. 
Các hoạt động thường ngày của họ như khai thác gỗ, thu hái lâm sản khác như củi đun, măng tre, mật ong, phong lan gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái rừng, nguy cơ cháy rừng là rất cao. Do vậy, giải quyết lương thực cho đồng bào nghèo và hạn chế người dân sống phụ thuộc vào rừng là vấn đề cần giải quyết triệt để.
Hai là trình độ dân trí thấp, phong tục, tập quán lạc hậu: Hầu hết cộng đồng dân cư trong và xung quanh VQG Xuân Sơn là đồng bào dân tộc thiểu số ít người. Phong tục lạc hậu sống du canh du cư vẫn còn xảy ra ở VQG Xuân Sơn. Đây là một thách thức không nhỏ đối với các công tác bảo tồn. Sự phụ thuộc của hàng nghìn người dân vào tài nguyên rừng, nhu cầu về đất canh tác và nhà ở sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các giá trị tự nhiên của VQG Xuân Sơn. Tình trạng đói nghèo vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của việc canh tác truyền thống đã lạc hậu. Một phần đất trống đồi núi trọc của VQG là hậu quả của đốt nương rẫy. Các hộ dân thường phát nương làm rẫy và trồng cây hoa màu xong lại tiến hành chuyển đi làm rẫy ở nơi khác do quan điểm mỗi vùng đất chỉ trồng một vụ do đất xấu nên những khu đất bà con bỏ lại đất đai bị xói mòn trở nên xấu hơn và trơ trọi hơn.
Ba là cháy rừng: Thường là một trong những nguy cơ lớn đe dọa đến tài nguyên sinh vật của VQG. Tuy nhiên, ở VQG Xuân Sơn tình trạng cháy rừng hàng năm vẫn xảy ra nhưng không nghiêm trọng lắm, thường cháy ở khu vực rừng trồng, diện tích nhỏ. Nguyên nhân do người dân thiếu cẩn trọng khi đốt nương làm rẫy.
Bốn là tổ chức quản lý: Đội ngũ cán bộ và nhân viên quản lý VQG Xuân Sơn còn ít và thiếu lại phải quản lý trên một địa bàn rộng, địa hình phức tạp, nên còn gặp rất nhiều khó khăn. Lực lượng cán bộ kỹ thuật không đủ để triển khai các hoạt động tại các thôn xóm. Các cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn ít khó có thể đảm đương được các chương trình hoặc dự án lớn của VQG. Trang thiết bị của vườn cũng còn rất hạn chế, thiếu thốn
Tất cả những nguy cơ và thách thức nói trên cho thấy cần phải thực hiện công tác nghiên cứu, qua đó làm cơ sở cho công tác bảo tồn đa dạng Vườn quốc gia Xuân Sơn được thành lập theo Quyết định số 49/2002/QĐ-TTg ngày 17/42002 của Thủ tướng Chính phủ, là một trong 30 VQG có trên lãnh thổ Việt Nam, là địa bàn không những có vị trí quan trọng về an ninh quốc phòng mà còn là hành lang giao lưu phát triển kinh tế nối liền vùng Tây Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ. Vườn Quốc gia Xuân Sơn nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, vị trí giáp ranh giữa 03 tỉnh: Phú Thọ, Hòa Bình và Sơn La. Vị trí Vườn nằm ở đúng điểm cuối của dãy Hoàng Liên Sơn, cửa ngõ của vùng Tây Bắc. Vườn Quốc gia Xuân Sơn là di sản thiên nhiên đặc sắc của tỉnh Phú Thọ và của cả nước. Vẻ đẹp hoang sơ cùng với nỗ lực tuyệt vời của con người trong việc giữ gìn nơi đây đã tạo nên một bức tranh lôi cuốn ít nơi nào sánh kịp dành cho những du khách thích khám phá vẻ đẹp tự nhiên.
Vườn Quốc gia Xuân Sơn nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật và động vật Mã Lai và Hoa Nam. Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha; phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan. 
Trước khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên (năm 1986) và Vườn Quốc gia (năm 2002) thì hiện tượng chặt phá rừng, khai thác lâm sản diễn ra thường xuyên đã làm cho chất lượng rừng bị giảm sút nghiêm trọng. Từ khi trở thành Khu bảo tồn thiên nhiên, thảm thực vật ở đây đã được bảo vệ, tình trạng phá rừng không còn, song việc khai thác nguồn tài nguyên phi lâm sản (song mây, dược liệu, hoa quả rừng,…) vẫn diễn ra hàng ngày đã làm giảm đáng kể tính đa dạng sinh học. 
Có rất nhiều thách thức và nguy cơ làm suy giảm đa dạng sinh học khu hệ thực vật VQG Xuân Sơn. Tuy nhiên do đặc thù điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội nơi đây dẫn đến những nguy cơ, thách thức trong công tác bảo tồn đa dạng khu hệ thực vật chủ yếu là:
 
Một là khai thác lâm sản trái phép: Hiện nay có khoảng hơn 3000 dân sinh sống ngay trong vùng lõi của VQG. Phần lớn họ là dân tộc thiểu số (Dao, Mường..) cuộc sống khó khăn, thu nhập bình quân cả hộ gia đình chưa đạt 700.000 đồng/ năm. Một số thôn còn chưa có điện lưới quốc gia, nên một phần vật chất cần thiết cho cuộc sống của dọ còn dựa vào rừng. Hơn nữa, tổ tiên con người chỉ biết vào rừng để lấy thức ăn, nước uống. Do vậy, không thể tránh khỏi tình trạng người dân vào rừng khai thác lâm sản trái phép và tự phát. 
Các hoạt động thường ngày của họ như khai thác gỗ, thu hái lâm sản khác như củi đun, măng tre, mật ong, phong lan gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái rừng, nguy cơ cháy rừng là rất cao. Do vậy, giải quyết lương thực cho đồng bào nghèo và hạn chế người dân sống phụ thuộc vào rừng là vấn đề cần giải quyết triệt để.
Hai là trình độ dân trí thấp, phong tục, tập quán lạc hậu: Hầu hết cộng đồng dân cư trong và xung quanh VQG Xuân Sơn là đồng bào dân tộc thiểu số ít người. Phong tục lạc hậu sống du canh du cư vẫn còn xảy ra ở VQG Xuân Sơn. Đây là một thách thức không nhỏ đối với các công tác bảo tồn. Sự phụ thuộc của hàng nghìn người dân vào tài nguyên rừng, nhu cầu về đất canh tác và nhà ở sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đối với các giá trị tự nhiên của VQG Xuân Sơn. Tình trạng đói nghèo vừa là nguyên nhân vừa là hậu quả của việc canh tác truyền thống đã lạc hậu. Một phần đất trống đồi núi trọc của VQG là hậu quả của đốt nương rẫy. Các hộ dân thường phát nương làm rẫy và trồng cây hoa màu xong lại tiến hành chuyển đi làm rẫy ở nơi khác do quan điểm mỗi vùng đất chỉ trồng một vụ do đất xấu nên những khu đất bà con bỏ lại đất đai bị xói mòn trở nên xấu hơn và trơ trọi hơn.
Ba là cháy rừng: Thường là một trong những nguy cơ lớn đe dọa đến tài nguyên sinh vật của VQG. Tuy nhiên, ở VQG Xuân Sơn tình trạng cháy rừng hàng năm vẫn xảy ra nhưng không nghiêm trọng lắm, thường cháy ở khu vực rừng trồng, diện tích nhỏ. Nguyên nhân do người dân thiếu cẩn trọng khi đốt nương làm rẫy.
Bốn là tổ chức quản lý: Đội ngũ cán bộ và nhân viên quản lý VQG Xuân Sơn còn ít và thiếu lại phải quản lý trên một địa bàn rộng, địa hình phức tạp, nên còn gặp rất nhiều khó khăn. Lực lượng cán bộ kỹ thuật không đủ để triển khai các hoạt động tại các thôn xóm. Các cán bộ có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn ít khó có thể đảm đương được các chương trình hoặc dự án lớn của VQG. Trang thiết bị của vườn cũng còn rất hạn chế, thiếu thốn
Tất cả những nguy cơ và thách thức nói trên cho thấy cần phải thực hiện công tác nghiên cứu, qua đó làm cơ sở cho công tác bảo tồn đa 
 

Tác giả bài viết:  Lê Đức Chiển (Phòng TN&MT huyện Tân Sơn)