Kết quả việc thực hiện cam kết của các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản trên địa bàn tỉnh.
Sở Tài nguyên và Môi trường có những đánh giá quá trình thực hiện cam kết như sau:
Ưu điểm:
Sau 1 năm thực hiện việc ký cam kết giữa các Doanh nghiệp với UBND tỉnh thông qua Giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường về 5 nội dung cam kết chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản cho thấy: Việc chấp hành các nội dung cam kết, các quy định pháp luật về thực hiện khai thác theo thiết kế, bảo vệ môi trường, đảm bảo an toàn lao động, các quy định về vật liệu nổ công nghiệp, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, của các của các Doanh nghiệp ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ hơn, hiệu quả cao hơn, cụ thể:
1. Đối với chấp hành quy định Luật Khoáng sản, nội dung quy định của giấy phép khai thác mỏ, tỷ lệ thực hiện đều tăng cao hơn nhiều so với trước khi ký cam kết:
- Về tiến độ đầu tư, thực hiện dự án đi vào khai thác: 73,9% (102/138 mỏ).
- Về thực hiện thu hồi, giao đất: 93% (112/114 mỏ).
- Về Ký hợp động thuê đất: 83% (97/117mỏ).
- Về lập thiết kế khai thác mỏ: 84,42% (96/114 mỏ).
- Về thực hiện quy trình quy phạm khai thác mỏ: 98,2% (112/114 mỏ).
2. Đối với chấp hành nghiêm các quy định của Luật Bảo vệ Môi trường, các cam kết về bảo vệ môi trường tỷ lệ số mỏ chấp hành cao hơn trước khi ký cam kết:
- Về xây dựng công trình xử lý môi trường, vận hành các công trình xử lý môi trường: 90,4% (107/126 mỏ).
- Về quan trắc định kỳ môi trường: 80,2% (111/126 mỏ).
- Về thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường: 100% (126/126 mỏ).
3. Đối với chấp hành quy định về an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, bảo quản, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp ngày càng nâng cao:
- Về tổ chức lớp tập huấn về an toàn lao động, VS công nghiệp: 93.85% (110/126 mỏ).
- Về trang bị phương tiện bảo hộ lao động cho công nhân: 100% (126/126 mỏ).
- Về Báo cáo định kỳ về an toàn lao động: 80,15 % số mỏ báo cáo.
- Đảm bảo bảo quản, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp 100%.
4. Đối với việc chấp hành quy định về an toàn giao thông, cấp tải cho phương tiện vận chuyển khoáng sản: Đây là một nội dung mới trong 5 cam kết đã đề xuất ký kết năm 2011, kết quả thực hiện là rất khả quan: đã có 61 % (78/126 mỏ) số mỏ đăng ký, đồng thời nhiều mỏ đã góp phần xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng hạ tầng cơ sở giao thông các huyện, các xã nơi có mỏ với tổng giá trị tương đương số tiền: 5.175,5 triệu đồng.
5. Đối với chấp hành quy định của địa phương: Các mỏ đều thực hiện đầy đủ theo quy định: Đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, chấp hành đúng quy định của địa phương, đóng góp các quỹ an sinh xã hội và từ thiện nhân đạo với tổng giá trị tương ứng số tiền: 7.135,393 triệu đồng.
6. Giải quyết việc làm cho 3.561 lao động của các địa phương.
7. Đóng góp cho ngân sách tỉnh gần 70 tỷ đồng các loại thuế, phí theo quy định của Luật ngân sách (1/8/2011-1/8/2012) so với năm 2010 chỉ đạt 60 tỷ đồng.
Những hạn chế:
1. Một số dự án đã được cấp phép nhiều năm nhưng tiến độ triển khai quá chậm, thậm chí có dự án chưa triển khai theo Quyết định đã được phê duyệt.
2. Một số doanh nghiệp chưa thực sự nghiêm túc chấp hành các quy định pháp luật cũng như các nội dung cam kết đã ký đối với hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản như: hoàn thiện các thủ tục đất đai, thực hiện cam kết bảo vệ môi truờng sau khi được cấp phép theo ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt hoặc xác nhận.
3. Cơ sở hạ tầng giao thông một số huyện, xã bị xuống cấp, nhất là các tuyến tỉnh lộ, tuyến đường liên thôn, liên xã khu vực các mỏ đá, mỏ sắt đang khai thác, chế biến vận chuyển tiêu thụ. Việc phối hợp của các Doanh nghiệp với chính quyền các cấp trong duy tu, bảo dưỡng đường giao thông chưa kịp thời.
4. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của một số đơn vị chưa đầy đủ, kịp thời theo quy định.
5. Nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm môi trường, sạt lở đất, bãi thải, mất an toàn lao động ở một số doanh nghiệp vẫn còn cao.
Nguyên nhân khách quan:
- Lạm phát, suy thoái kinh tế trong thời gian qua, cùng với chủ trương thắt chặt tiền tệ của Chính phủ làm cho các Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, tái đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
- Thủ tục thu hồi giao đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, ký hợp đồng thuê đất hiện nay còn có những bất cập do phạm vi điều chỉnh của các Luật liên quan, chẳng hạn trong một giấy phép có 2 loại đất phải ký hợp đồng thuê đất: Có thời hạn khác nhau (diện tích đất khai thác ký theo thời hạn giấy phép khai thác và chỉ được gia hạn sau khi đã gia hạn giấy phép còn diện tích đất XDCB và chế biến ký theo giấy chứng nhận đầu tư - có thể đến 49 năm và ký 1 lần), việc thẩm định đơn giá đất còn lòng vòng, phức tạp đặc biệt đối với thuê đất, mặt nước không cố định trong khai thác cát sỏi lòng sông.
- Đặc thù mỏ khoáng sản trên địa bàn tỉnh phân bổ không tập trung, trữ lượng nhỏ, chất lượng thấp, khi doanh nghiệp đầu tư gặp nhiều khó khăn, thậm chí gặp rủi ro.
- Thời hạn giấy phép khai thác đối với cát sỏi ngắn, dẫn đến nhiều trường hợp chưa thực hiện được thủ tục thu hồi giao đất đã hết hạn giấy phép.
- Mức xử phạt vi hành chính trong lĩnh vực khoáng sản quy định tại Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 và Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 10/5/2007 của Chính phủ còn thấp, chưa đủ tính răn đe.
Nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thức của một số doanh nghiệp về các quy định của pháp luật, và nội dung cam kết chưa đầy đủ, nhiều đơn vị cho rằng đã có công trình môi trường thì được phép hoạt động mà không phải báo cáo cơ quan thẩm quyền nghiệm thu xác nhận; hoặc xuất, bán sản phẩm tại mỏ cho các đơn vị thu mua thông qua hợp đồng kinh tế thì không cần đăng ký tuyến đường vận tải tiêu thụ, tải trọng lưu hành trên đường tiêu thụ…
- ý thức tự giác chấp hành của một vài Doanh nghiệp chưa cao, thậm chí có Doanh nghiệp còn chạy theo lợi nhuận trước mắt, không muốn đầu tư bền vững, lâu dài.
- Năng lực tài chính, thiết bị công nghệ và nhân lực của một số Doanh nghiệp còn hạn chế.
- Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, xử lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời, kiên quyết, chưa đủ sức ngăn chặn, răn đe các hành vi vi phạm.
Ưu điểm:
Sau 1 năm thực hiện việc ký cam kết giữa các Doanh nghiệp với UBND tỉnh thông qua Giám đốc sở Tài nguyên và Môi trường về 5 nội dung cam kết chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản cho thấy: Việc chấp hành các nội dung cam kết, các quy định pháp luật về thực hiện khai thác theo thiết kế, bảo vệ môi trường, đảm bảo an toàn lao động, các quy định về vật liệu nổ công nghiệp, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, của các của các Doanh nghiệp ngày càng nghiêm túc, chặt chẽ hơn, hiệu quả cao hơn, cụ thể:
1. Đối với chấp hành quy định Luật Khoáng sản, nội dung quy định của giấy phép khai thác mỏ, tỷ lệ thực hiện đều tăng cao hơn nhiều so với trước khi ký cam kết:
- Về tiến độ đầu tư, thực hiện dự án đi vào khai thác: 73,9% (102/138 mỏ).
- Về thực hiện thu hồi, giao đất: 93% (112/114 mỏ).
- Về Ký hợp động thuê đất: 83% (97/117mỏ).
- Về lập thiết kế khai thác mỏ: 84,42% (96/114 mỏ).
- Về thực hiện quy trình quy phạm khai thác mỏ: 98,2% (112/114 mỏ).
2. Đối với chấp hành nghiêm các quy định của Luật Bảo vệ Môi trường, các cam kết về bảo vệ môi trường tỷ lệ số mỏ chấp hành cao hơn trước khi ký cam kết:
- Về xây dựng công trình xử lý môi trường, vận hành các công trình xử lý môi trường: 90,4% (107/126 mỏ).
- Về quan trắc định kỳ môi trường: 80,2% (111/126 mỏ).
- Về thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường: 100% (126/126 mỏ).
3. Đối với chấp hành quy định về an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, bảo quản, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp ngày càng nâng cao:
- Về tổ chức lớp tập huấn về an toàn lao động, VS công nghiệp: 93.85% (110/126 mỏ).
- Về trang bị phương tiện bảo hộ lao động cho công nhân: 100% (126/126 mỏ).
- Về Báo cáo định kỳ về an toàn lao động: 80,15 % số mỏ báo cáo.
- Đảm bảo bảo quản, sử dụng vật liệu nổ công nghiệp 100%.
4. Đối với việc chấp hành quy định về an toàn giao thông, cấp tải cho phương tiện vận chuyển khoáng sản: Đây là một nội dung mới trong 5 cam kết đã đề xuất ký kết năm 2011, kết quả thực hiện là rất khả quan: đã có 61 % (78/126 mỏ) số mỏ đăng ký, đồng thời nhiều mỏ đã góp phần xây dựng, cải tạo, bảo dưỡng hạ tầng cơ sở giao thông các huyện, các xã nơi có mỏ với tổng giá trị tương đương số tiền: 5.175,5 triệu đồng.
5. Đối với chấp hành quy định của địa phương: Các mỏ đều thực hiện đầy đủ theo quy định: Đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, chấp hành đúng quy định của địa phương, đóng góp các quỹ an sinh xã hội và từ thiện nhân đạo với tổng giá trị tương ứng số tiền: 7.135,393 triệu đồng.
6. Giải quyết việc làm cho 3.561 lao động của các địa phương.
7. Đóng góp cho ngân sách tỉnh gần 70 tỷ đồng các loại thuế, phí theo quy định của Luật ngân sách (1/8/2011-1/8/2012) so với năm 2010 chỉ đạt 60 tỷ đồng.
Những hạn chế:
1. Một số dự án đã được cấp phép nhiều năm nhưng tiến độ triển khai quá chậm, thậm chí có dự án chưa triển khai theo Quyết định đã được phê duyệt.
2. Một số doanh nghiệp chưa thực sự nghiêm túc chấp hành các quy định pháp luật cũng như các nội dung cam kết đã ký đối với hoạt động khai thác, chế biến khoáng sản như: hoàn thiện các thủ tục đất đai, thực hiện cam kết bảo vệ môi truờng sau khi được cấp phép theo ĐTM và cam kết bảo vệ môi trường đã được phê duyệt hoặc xác nhận.
3. Cơ sở hạ tầng giao thông một số huyện, xã bị xuống cấp, nhất là các tuyến tỉnh lộ, tuyến đường liên thôn, liên xã khu vực các mỏ đá, mỏ sắt đang khai thác, chế biến vận chuyển tiêu thụ. Việc phối hợp của các Doanh nghiệp với chính quyền các cấp trong duy tu, bảo dưỡng đường giao thông chưa kịp thời.
4. Việc thực hiện nghĩa vụ tài chính của một số đơn vị chưa đầy đủ, kịp thời theo quy định.
5. Nguy cơ tiềm ẩn ô nhiễm môi trường, sạt lở đất, bãi thải, mất an toàn lao động ở một số doanh nghiệp vẫn còn cao.
Nguyên nhân khách quan:
- Lạm phát, suy thoái kinh tế trong thời gian qua, cùng với chủ trương thắt chặt tiền tệ của Chính phủ làm cho các Doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn, tái đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh, hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
- Thủ tục thu hồi giao đất, bồi thường giải phóng mặt bằng, ký hợp đồng thuê đất hiện nay còn có những bất cập do phạm vi điều chỉnh của các Luật liên quan, chẳng hạn trong một giấy phép có 2 loại đất phải ký hợp đồng thuê đất: Có thời hạn khác nhau (diện tích đất khai thác ký theo thời hạn giấy phép khai thác và chỉ được gia hạn sau khi đã gia hạn giấy phép còn diện tích đất XDCB và chế biến ký theo giấy chứng nhận đầu tư - có thể đến 49 năm và ký 1 lần), việc thẩm định đơn giá đất còn lòng vòng, phức tạp đặc biệt đối với thuê đất, mặt nước không cố định trong khai thác cát sỏi lòng sông.
- Đặc thù mỏ khoáng sản trên địa bàn tỉnh phân bổ không tập trung, trữ lượng nhỏ, chất lượng thấp, khi doanh nghiệp đầu tư gặp nhiều khó khăn, thậm chí gặp rủi ro.
- Thời hạn giấy phép khai thác đối với cát sỏi ngắn, dẫn đến nhiều trường hợp chưa thực hiện được thủ tục thu hồi giao đất đã hết hạn giấy phép.
- Mức xử phạt vi hành chính trong lĩnh vực khoáng sản quy định tại Nghị định số 150/2004/NĐ-CP ngày 29/7/2004 và Nghị định số 77/2007/NĐ-CP ngày 10/5/2007 của Chính phủ còn thấp, chưa đủ tính răn đe.
Nguyên nhân chủ quan:
- Nhận thức của một số doanh nghiệp về các quy định của pháp luật, và nội dung cam kết chưa đầy đủ, nhiều đơn vị cho rằng đã có công trình môi trường thì được phép hoạt động mà không phải báo cáo cơ quan thẩm quyền nghiệm thu xác nhận; hoặc xuất, bán sản phẩm tại mỏ cho các đơn vị thu mua thông qua hợp đồng kinh tế thì không cần đăng ký tuyến đường vận tải tiêu thụ, tải trọng lưu hành trên đường tiêu thụ…
- ý thức tự giác chấp hành của một vài Doanh nghiệp chưa cao, thậm chí có Doanh nghiệp còn chạy theo lợi nhuận trước mắt, không muốn đầu tư bền vững, lâu dài.
- Năng lực tài chính, thiết bị công nghệ và nhân lực của một số Doanh nghiệp còn hạn chế.
- Công tác hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, xử lý của các cơ quan quản lý nhà nước chưa đầy đủ, kịp thời, kiên quyết, chưa đủ sức ngăn chặn, răn đe các hành vi vi phạm.
Tác giả bài viết: Nguyễn Thành Trung - Phòng Quản lý Khoáng sản
Nguồn tin: Trung Tâm Công Nghệ Thông Tin