Huyện Yên Lập giải quyết và đề xuất biện pháp giải quyết những tồn tại trong quản lý, sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp trên địa bàn huyện.
Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Thọ tại thông báo kết luận số 22/TB-UBND ngày 18/3/2010 về việc giải quyết những tồn tại trong quản lý, sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh. UBND huyện Yên Lập đã tiến hành đo đạc xác định được tổng diện tích nằm trong ranh giới được giao đất của các đơn vị là 8.811,55 ha (xí nghiệp chè Ngọc Đồng: 1.494,12 ha, Xí nghiệp chè Hưng Long 1.004,6 ha, Công ty Lâm nghiệp Yên Lập 4.202,95 ha, Công ty Lâm nghiệp A Mai 1.205,26 ha) và lập hồ sơ đề nghị UBND tỉnh thu hồi: 4.870,14 ha (xí nghiệp chè Ngọc Đồng: 1.137,82 ha, Xí nghiệp chè Hưng Long 728,73 ha, Công ty Lâm nghiệp Yên Lập 2.099,06 ha, Công ty Lâm nghiệp A Mai 904,53 ha) của các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp giao cho địa phương quản lý để giải quyết những tồn tại trong quản lý, sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp bao gồm:
1- Thu hồi diện tích đất đã cấp trùng giấy chứng nhận giữa các hộ dân và các đơn vị: 780,55 ha, trong đó: Đất ở 27,72 ha, đất trồng cây lâu năm 174,49 ha, đất Lúa 45,61 ha, đất NTTS 64,12 ha, đất có rừng sản xuất 451,30 ha và đất rừng khoanh nuôi phòng hộ 20,2 ha, số hộ cấp trùng 906 hộ.
2- Thu hồi diện tích, các hộ dân tự sử dụng: 3.242,52 ha.
Trong đó:
+ Đất các hộ gia đình sử dụng làm nhà ở: 15,80 ha
+ Đất trồng CLN: 132,76 ha
+ Đất lúa: 72,34 ha
+ Đất NTTS: 53,22 ha
+ Đất trồng rừng theo Dự án 661: 290,40 ha
+ Đất trồng rừng SX: 2.337,26 ha
+ Đất khoanh nuôi rừng PH: 340,74 ha
- Thời điểm sử dụng đất:
+ Trước năm 1993: Số hộ sử dụng đất 391 hộ; diện tích các hộ đang sử dụng 740,21 ha, trong đó: Đất ở 5,70 ha, đất cây lâu năm 39,79 ha, đất Lúa 53,55 ha, đất NTTS 10,63 ha, đất RSX 579,54 ha và đất rừng phòng hộ 51,0 ha.
+ Sau năm 1993 đến năm 2001: Số hộ sử dụng đất 983 hộ; diện tích các hộ đang sử dụng 2.502,31 ha, trong đó: Đất sử dụng làm nhà ở 10,10 ha, đất trồng cây lâu năm 96,97 ha, đất lúa 18,79 ha, đất NTTS 42,59 ha, đất trồng rừng theo dự án 661: 290,40 ha, đất rừng sản xuất 1.753,72 ha và đất rừng phòng hộ 289,74 ha.
3- Thu hồi diện tích giao trùng vào đất quốc phòng: 182,30 ha.
4- Thu hồi diện tích có độ dốc cao và núi đá: 660,87 ha.
* Diện tích còn lại đang được các Công ty quản lý, sử dụng: 3.941,41 ha, bao gồm: Công ty lâm nghiệp A Mai 1.151.28 ha; Công ty lâm nghiệp Yên Lập 2103,89 ha; xí nghiệp chè Hưng Long 274,95 ha, xí nghiệp chè Ngọc Đồng 356,30 ha.
Việc thu hồi số diện tích trên giao cho địa phương quản lý là một việc làm cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong thực hiện Chủ trương của Đảng và nhà nước về sắp xếp, đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh; đảm bảo quản lý và sử dụng đất có hiệu quả và theo đúng các quy định của Pháp luật; ổn định tình hình và phát triển sản xuất; phù hợp với điều kiện thực tế năng lực sản xuất kinh doanh của các tổ chức sử dụng đất. Bước đầu đã góp phần tích cực trong việc xử lý các tranh chấp để ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện.
Đã tạo ra sự đồng thuận nhất trí chung giữa các tổ chức sử dụng đất và chính quyền cơ sở trong biện pháp giải quyết cụ thể và được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, để thực hiện các bước tiếp theo trong công tác quản lý và sử dụng quỹ đất thu hồi từ các nông lâm trường một cách công bằng và có hiệu quả đang là vấn đề đặt ra hết sức khó khăn như:
- Chưa thống kê chính xác diện tích, loại đất các hộ tự sử dụng mà chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất, đất do UBND các xã, TT đang quản lý khoanh nuôi rừng phòng hộ... (do quá trình rà soát, lập hồ sơ trình UBND tỉnh quyết định thu hồi được thực hiện bằng việc đo khoanh bao, chưa đo đạc chi tiết)
- Phần lớn diện tích thu hồi do các hộ gia đình, cá nhân tại các xã, thị trấn sử dụng (làm nhà ở, vườn tạp, trồng cây nguyên liệu...). Diện tích sử dụng manh mún, chưa có sự đầu tư thâm canh hiệu quả, chủ yếu là giữ đất.
- Có sự chênh lệch về diện tích sử dụng đất giữa các hộ, tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp giữa hộ với hộ.
- Chưa thực hiện cắm mốc phân định ranh giới sử dụng đất giữa các đơn vị NLT với nhân dân địa phương do các đơn vị sử dụng đất chưa xây dựng được quy hoạch sử dụng đất chi tiết gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị trình cấp thẩm quyền phê duyệt để lập hồ sơ thuê đất theo quy định.
Để giải quyết dứt điểm những tồn tại trong quản lý, sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp và đưa diện tích đất đã được UBND tỉnh thu hồi vào sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả theo đúng quy định của Luật Đất đai. UBND huyện đề xuất phương án giải quyết đất thu hồi từ các nông lâm trường trên địa bàn huyện như sau:
- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là các quy định của Luật Đất đai.
- UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở ngành, giải quyết rứt điểm các vụ việc tranh chấp đất lâm nghiệp giữa các hộ dân địa phương và các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp.
- Tiến hành đo đạc chi tiết diện tích 4.870,14 ha đã được UBND tỉnh thu hồi giao cho địa phương quản lý (theo dự án đo đạc lập hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn huyện Yên Lập).
- Tổ chức giao quản lý và sử dụng quỹ đất đã thu hồi như sau:
+ Đối với diện tích đất có các công trình công cộng và đất rừng phòng hộ giao cho UBND cấp xã quản lý.
+ Đối với diện tích đất ở và đất trồng cây lâu năm nằm trong khuôn viên đất ở do các hộ đang quản lý sử dụng mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ (cụ thể các hộ sử dụng trước 15/10/1993 trở về trước thì công nhận quyền sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất, các hộ sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến 01/7/2004 thì được công nhận quyền sử dụng đất và phải nộp 50% tiền sử dụng đất theo giá đất của UBND tỉnh quy định).
+ Đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp: giao cho các hộ tiếp tục sử dụng nhưng không được vượt hạn mức bình quân giao đất sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
+ Đối với đất rừng trồng sản xuất: Tiếp tục giao cho các hộ đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định theo điều 50 Luật Đất đai năm 2003, giao cho các hộ dân thiếu đất sản xuất mà có nhu cầu sử dụng đất để phát triển kinh tế, Cho các tổ chức, hộ gia đình có nhu cầu thuê đất để sản xuất lâm nghiệp theo quy định.
- Các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp cần tập trung rà soát đất đai, lập quy hoạch sử dụng đất, xác định ranh giới cắm mốc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển sang thuê đất, nhằm quản lý sử dụng đất chặt chẽ có hiệu quả và chuyển giao cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, không trực tiếp sản xuất của đơn vị cho địa phương quản lý sử dụng.
Như vậy công tác giải quyết những tồn tại trong quản lý sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông lâm nghiệp mới thật sự có hiệu quả và đáp ứng sự mong mỏi của quần chúng nhân dân.
1- Thu hồi diện tích đất đã cấp trùng giấy chứng nhận giữa các hộ dân và các đơn vị: 780,55 ha, trong đó: Đất ở 27,72 ha, đất trồng cây lâu năm 174,49 ha, đất Lúa 45,61 ha, đất NTTS 64,12 ha, đất có rừng sản xuất 451,30 ha và đất rừng khoanh nuôi phòng hộ 20,2 ha, số hộ cấp trùng 906 hộ.
2- Thu hồi diện tích, các hộ dân tự sử dụng: 3.242,52 ha.
Trong đó:
+ Đất các hộ gia đình sử dụng làm nhà ở: 15,80 ha
+ Đất trồng CLN: 132,76 ha
+ Đất lúa: 72,34 ha
+ Đất NTTS: 53,22 ha
+ Đất trồng rừng theo Dự án 661: 290,40 ha
+ Đất trồng rừng SX: 2.337,26 ha
+ Đất khoanh nuôi rừng PH: 340,74 ha
- Thời điểm sử dụng đất:
+ Trước năm 1993: Số hộ sử dụng đất 391 hộ; diện tích các hộ đang sử dụng 740,21 ha, trong đó: Đất ở 5,70 ha, đất cây lâu năm 39,79 ha, đất Lúa 53,55 ha, đất NTTS 10,63 ha, đất RSX 579,54 ha và đất rừng phòng hộ 51,0 ha.
+ Sau năm 1993 đến năm 2001: Số hộ sử dụng đất 983 hộ; diện tích các hộ đang sử dụng 2.502,31 ha, trong đó: Đất sử dụng làm nhà ở 10,10 ha, đất trồng cây lâu năm 96,97 ha, đất lúa 18,79 ha, đất NTTS 42,59 ha, đất trồng rừng theo dự án 661: 290,40 ha, đất rừng sản xuất 1.753,72 ha và đất rừng phòng hộ 289,74 ha.
3- Thu hồi diện tích giao trùng vào đất quốc phòng: 182,30 ha.
4- Thu hồi diện tích có độ dốc cao và núi đá: 660,87 ha.
* Diện tích còn lại đang được các Công ty quản lý, sử dụng: 3.941,41 ha, bao gồm: Công ty lâm nghiệp A Mai 1.151.28 ha; Công ty lâm nghiệp Yên Lập 2103,89 ha; xí nghiệp chè Hưng Long 274,95 ha, xí nghiệp chè Ngọc Đồng 356,30 ha.
Việc thu hồi số diện tích trên giao cho địa phương quản lý là một việc làm cụ thể có ý nghĩa rất to lớn trong thực hiện Chủ trương của Đảng và nhà nước về sắp xếp, đổi mới các nông, lâm trường quốc doanh; đảm bảo quản lý và sử dụng đất có hiệu quả và theo đúng các quy định của Pháp luật; ổn định tình hình và phát triển sản xuất; phù hợp với điều kiện thực tế năng lực sản xuất kinh doanh của các tổ chức sử dụng đất. Bước đầu đã góp phần tích cực trong việc xử lý các tranh chấp để ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện.
Đã tạo ra sự đồng thuận nhất trí chung giữa các tổ chức sử dụng đất và chính quyền cơ sở trong biện pháp giải quyết cụ thể và được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Tuy nhiên, để thực hiện các bước tiếp theo trong công tác quản lý và sử dụng quỹ đất thu hồi từ các nông lâm trường một cách công bằng và có hiệu quả đang là vấn đề đặt ra hết sức khó khăn như:
- Chưa thống kê chính xác diện tích, loại đất các hộ tự sử dụng mà chưa được cấp giấy chứng nhận QSD đất, đất do UBND các xã, TT đang quản lý khoanh nuôi rừng phòng hộ... (do quá trình rà soát, lập hồ sơ trình UBND tỉnh quyết định thu hồi được thực hiện bằng việc đo khoanh bao, chưa đo đạc chi tiết)
- Phần lớn diện tích thu hồi do các hộ gia đình, cá nhân tại các xã, thị trấn sử dụng (làm nhà ở, vườn tạp, trồng cây nguyên liệu...). Diện tích sử dụng manh mún, chưa có sự đầu tư thâm canh hiệu quả, chủ yếu là giữ đất.
- Có sự chênh lệch về diện tích sử dụng đất giữa các hộ, tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp giữa hộ với hộ.
- Chưa thực hiện cắm mốc phân định ranh giới sử dụng đất giữa các đơn vị NLT với nhân dân địa phương do các đơn vị sử dụng đất chưa xây dựng được quy hoạch sử dụng đất chi tiết gắn với nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của đơn vị trình cấp thẩm quyền phê duyệt để lập hồ sơ thuê đất theo quy định.
Để giải quyết dứt điểm những tồn tại trong quản lý, sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp và đưa diện tích đất đã được UBND tỉnh thu hồi vào sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả theo đúng quy định của Luật Đất đai. UBND huyện đề xuất phương án giải quyết đất thu hồi từ các nông lâm trường trên địa bàn huyện như sau:
- Tiếp tục tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật đến đông đảo quần chúng nhân dân, nhất là các quy định của Luật Đất đai.
- UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo các sở ngành, giải quyết rứt điểm các vụ việc tranh chấp đất lâm nghiệp giữa các hộ dân địa phương và các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp.
- Tiến hành đo đạc chi tiết diện tích 4.870,14 ha đã được UBND tỉnh thu hồi giao cho địa phương quản lý (theo dự án đo đạc lập hồ sơ địa chính cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn huyện Yên Lập).
- Tổ chức giao quản lý và sử dụng quỹ đất đã thu hồi như sau:
+ Đối với diện tích đất có các công trình công cộng và đất rừng phòng hộ giao cho UBND cấp xã quản lý.
+ Đối với diện tích đất ở và đất trồng cây lâu năm nằm trong khuôn viên đất ở do các hộ đang quản lý sử dụng mà phù hợp với quy hoạch sử dụng đất thì công nhận và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ (cụ thể các hộ sử dụng trước 15/10/1993 trở về trước thì công nhận quyền sử dụng đất không phải nộp tiền sử dụng đất, các hộ sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến 01/7/2004 thì được công nhận quyền sử dụng đất và phải nộp 50% tiền sử dụng đất theo giá đất của UBND tỉnh quy định).
+ Đối với diện tích đất sản xuất nông nghiệp: giao cho các hộ tiếp tục sử dụng nhưng không được vượt hạn mức bình quân giao đất sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
+ Đối với đất rừng trồng sản xuất: Tiếp tục giao cho các hộ đã có một trong các loại giấy tờ về quyền sử dụng đất được quy định theo điều 50 Luật Đất đai năm 2003, giao cho các hộ dân thiếu đất sản xuất mà có nhu cầu sử dụng đất để phát triển kinh tế, Cho các tổ chức, hộ gia đình có nhu cầu thuê đất để sản xuất lâm nghiệp theo quy định.
- Các đơn vị sử dụng đất nông, lâm nghiệp cần tập trung rà soát đất đai, lập quy hoạch sử dụng đất, xác định ranh giới cắm mốc, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chuyển sang thuê đất, nhằm quản lý sử dụng đất chặt chẽ có hiệu quả và chuyển giao cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội, không trực tiếp sản xuất của đơn vị cho địa phương quản lý sử dụng.
Như vậy công tác giải quyết những tồn tại trong quản lý sử dụng đất của các đơn vị sử dụng đất nông lâm nghiệp mới thật sự có hiệu quả và đáp ứng sự mong mỏi của quần chúng nhân dân.
Tác giả bài viết: Trần Quốc Tuấn - Phó Trưởng phòng TN và MT H.Yên Lập
Nguồn tin: Trung Tâm Công Nghệ Thông Tin