Phát huy tiềm năng, lợi thế tỉnh Phú Thọ phấn đấu phát triển sản xuất thủy sản bền vững, hoàn thành mục tiêu đến năm 2025: Tổng sản lượng đạt 45,5 ngàn tấn, giá trị tăng thêm đạt trên 8%/năm, chiếm trên 8% trong cơ cấu ngành.
Giai đoạn 2016-2020, cùng với những khó khăn chung trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, sản xuất thủy sản chịu ảnh hưởng không nhỏ bởi khí hậu biến đổi dị thường, dịch bệnh diễn biến phức tạp, cạnh tranh thị trường tiêu thụ nông sản ngày càng gay gắt đòi hỏi sản xuất phải gắn với tái cơ cấu hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong khi tiềm lực kinh tế đầu tư phát triển sản xuất của người dân còn hạn chế, hạ tầng phục vụ sản xuất thủy sản thiếu đồng bộ, lực lượng lao động còn thiếu kỹ thuật, tư duy sản xuất nhỏ lẻ, việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới gặp nhiều khó khăn. Song, được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, sự phối hợp vào cuộc có hiệu quả của các ngành, các cấp trong triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ, định hướng phát triển sản xuất của tỉnh; sự nỗ lực vươn lên làm giàu từ hoạt động kinh tế thủy sản của người dân, sản xuất thủy sản của tỉnh giữ vững được tốc độ tăng trưởng, góp phần tích cực trong phát triển nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nông thôn mới.
Đến năm 2020: Diện tích chuyên nuôi thủy sản của tỉnh ổn định 5.350 ha, cơ cấu diện tích chuyên nuôi chuyển dịch tích cực (diện tích thâm canh đạt 2.026 ha, tăng 30,71% so với 2015; diện tích bán thâm canh còn 3.324 ha, giảm 12,52% so với 2015); diện tích nuôi tận dụng mặt nước lớn, ruộng 1 vụ đạt 5.515 ha; tổng số lồng nuôi trên sông và hồ chứa đạt 1.832 lồng (tăng 66,55% so với 2015). Tổng sản lượng thủy sản đạt 40.026 tấn (tăng 33,07% so với 2015); giá trị sản xuất theo giá hiện hành năm 2020 đạt 1.872 tỷ đồng (tăng 41,2% so với năm 2015), chiếm 7,78% cơ cấu nội bộ ngành (mục tiêu quy hoạch 6,9%), tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân giai đoạn 2016 - 2020 đạt 6,9%/năm (mục tiêu quy hoạch 5,5%/năm); sản lượng thủy sản của tỉnh đứng thứ 2 trong 14 tỉnh trung du miền núi phía Bắc.
Đóng góp quan trọng vào kết quả như trên là nhờ có sự quan tâm của các ngành, các cấp trong quản lý, chỉ đạo triển khai có hiệu quả cơ chế, chính sách của tỉnh; một số địa phương đã ban hành Nghị quyết chuyên đề về phát triển thủy sản (Cẩm Khê, Tam Nông); công tác thu hút đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất thủy sản tập trung được quan tâm góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng mặt nước nuôi thủy sản trên địa bàn (Giai đoạn 2016-2020 UBND tỉnh đã phê duyệt và triển khai 10 dự án đầu tư xây dựng hạ tầng thủy sản, quy mô 391,25 ha, tổng mức đầu tư 472,58 tỷ đồng). Việc thực hiện có hiệu quả đồng bộ các giải pháp đã góp phần nâng cao chất lượng hạ tầng kỹ thuật, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị có bước phát triển thực chất là nền tảng nâng cao quy mô sản xuất hàng hóa tập trung và hiệu quả sản xuất thủy sản trong giai đoạn tới. Toàn tỉnh hiện có 54 khu nuôi tập trung (1.352,43ha) cơ bản đáp ứng nhu cầu cấp, thoát nước thuận lợi áp dụng các tiến bộ kỹ thuật thâm canh và thâm canh cao (sản lượng khu vực này chiếm tới 25% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh); loại hình kinh tế trang trại, doanh nghiệp, hợp tác xã lĩnh vực thủy sản tăng nhanh góp phần nâng cao thay đổi tập quán nuôi thủy sản từ nhỏ lẻ, tự cấp, tự phát sang quy mô lớn, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới để nâng cao năng suất, chất lượng, thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị nhằm giảm chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả đầu tư (toàn tỉnh hiện có 27 trang trại theo tiêu chí mới, 10 doanh nghiệp, 12 hợp tác xã, quy mô 1.285,92 ha và 482 lồng nuôi). Được sự quan tâm bố trí các nguồn kinh phí thực hiện chính sách của tỉnh, của các địa phương từ chương trình mục tiêu xây dựng nông thôn mới, sự nghiệp nghiên cứu khoa học, sự nghiệp khuyến ngư và sự mạnh dạn đầu tư của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh đã có nhiều mô hình nuôi các đối tượng thủy sản bản địa, thủy sản đặc sản, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong thâm canh cho năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao như: Mô hình ứng dụng công nghệ sinh học trong quản lý môi trường ao nuôi; mô hình nuôi cá “sông trong ao”; mô hình nuôi cá trạch đồng, cá trê đồng, cá quả ta, tôm càng xanh, ốc nhồi, cá ngạnh sông, cá lăng, cá bỗng, cá tầm,... góp phần đa dạng sản phẩm phục vụ thị hiếu người tiêu dùng gắn với hoạt động dịch vụ du lịch trải nghiệm trên địa bàn. Chất lượng sản phẩm thủy sản của tỉnh từng bước được nâng lên, góp phần nâng cao sức cạnh tranh trong thị trường tiêu thụ các tỉnh phía Bắc (có 4 nhãn hiệu hàng hóa tập thể là cá sông Đà, cá sông Lô, cá thính Tử Đà, cá chép đỏ Thủy Trầm). Hoạt động sản xuất giống thủy sản chuyển dịch tích cực từ sản xuất giống truyền thống sang các loại giống đặc sản, giống mới, cá cảnh cho giá trị kinh tế cao (hàng năm tỉnh cung ứng cho sản xuất của tỉnh và các tỉnh phía Bắc đạt trên 1,5 tỷ cá giống các loại). Hệ thống dịch vụ cung ứng vật tư kỹ thuật đầu vào như: giống, thức ăn, hóa chất, chế phẩm, ngư cụ,... phục vụ sản xuất phát triển rộng rãi, đáp ứng được nhu cầu của người dân.
Tuy nhiên, trong phát triển sản xuất thủy sản của tỉnh còn nhiều hạn chế và thiếu bền vững, đó là: Năng suất nuôi ở các loại hình mặt nước còn thấp; tiềm năng nuôi cá nước lạnh, tiềm năng phục vụ của các công trình thủy lợi đầu mối lớn chưa được phát huy; loại hình kinh tế trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp đã có bước phát triển song liên kết còn lỏng lẻo, sức đầu tư chưa đủ mạnh để là đầu tàu dẫn dắt kinh tế thủy sản của tỉnh tiếp cận với thị trường trong tình hình mới; cơ cấu sản lượng các sản phẩm thủy sản đặc sản, đặc trưng bản địa thấp; hoạt động sơ chế, chế biến chậm phát triển; công tác quản lý lĩnh vực chuyên ngành còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu đó là: Công tác chỉ đạo tổ chức sản xuất ở từng loại hình mặt nước theo quy hoạch chưa được quan tâm đúng mức; nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng còn khó khăn, hệ thống kênh cấp, kênh tiêu kết nối giữa các công trình thủy lợi với các khu nuôi thủy sản còn thiếu, chưa đồng bộ; sản xuất thủy sản cần vốn lớn song khả năng đầu tư, mức vốn được vay phục vụ sản xuất thủy sản chưa đáp ứng nhu cầu; tập quán, trình độ kỹ thuật, mức độ đầu tư của người nuôi giữa các vùng có sự chênh lệch cao; nguồn vốn bố trí cho hoạt động sự nghiệp khuyến ngư còn hạn chế; hệ thống văn bản quy định pháp luật lĩnh vực chuyên ngành còn chồng chéo, thủ tục hành chính trong cấp phép sử dụng mặt nước nuôi thủy sản còn phức tạp, cơ chế chính sách chưa thực sự hấp dẫn thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất.
Để phát huy tiềm năng, lợi thế phát triển sản xuất thủy sản bền vững, hoàn thành mục tiêu đến năm 2025 (Tổng sản lượng đạt 45,5 ngàn tấn, giá trị tăng thêm đạt trên 8%/năm, chiếm trên 8% trong cơ cấu ngành), thời gian tới cần tập trung thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau:
Một là: Tổng kết, đánh giá kết quả sản xuất thủy sản giai đoạn 2016-2020, xác định được những khó khăn, vướng mắc để giải quyết kịp thời những điểm nghẽn trong thực tiễn tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu thị trường; xây dựng kế hoạch sản xuất giai đoạn 2021-2025 đảm bảo xác định rõ đối tượng sản xuất, chất lượng sản phẩm, hình thức thâm canh phù hợp với từng loại hình mặt nước, từng địa phương để thống nhất chỉ đạo thực hiện từ tỉnh đến cơ sở; tập trung chỉ đạo tiếp tục chuyển dịch cơ cấu mặt nước chuyên nuôi thủy sản theo hướng tăng diện tích thâm canh, thâm canh cao, giảm diện tích bán thâm canh; phát triển cá lồng có kiểm soát theo hướng tăng quy mô lồng nuôi trong hồ chứa, giảm quy mô nuôi cá lồng trên sông Đà và sông Lô.
Hai là: Đánh giá, nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển thủy sản giai đoạn 2021-2025. Thực hiện có hiệu quả việc giao khoán mặt nước theo hình thức đấu thầu công khai, thời gian giao khoán tối đa (cấp xã giao khoán 5 năm, cấp huyện giao khoán 20 năm), ở các diện tích mặt nước không nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế khác phải chấm dứt hình thức giao khoán 1 năm 1 lần để thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia đấu thầu, yên tâm tích tụ diện tích quy mô trang trại, đầu tư hạ tầng đẩy mạnh thâm canh nâng cao năng suất; quan tâm thu hút các doanh nghiệp đầu tư khai thác tiềm năng nuôi cá nước lạnh gắn với hoạt động du lịch trải nghiệm tại Thanh Sơn, Yên Lập, Hạ Hòa và xây dựng các vùng nuôi tập trung thâm canh cao kết nối với với các công trình thủy lợi lớn của tỉnh như đập Ngòi Lao, hồ Ngòi Giành. Tiếp tục triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với nhãn hiệu cá lồng sông Đà, cá lồng sông Lô, cá thính Tử Đà; xây dựng nhãn hiệu hàng hóa, sản phẩm OCOOP đối với một số sản phẩm đặc trưng (cá chép đỏ Thủy Trầm, tôm càng xanh Văn Khúc, cá Lăng, cá Ngạnh, cá Bỗng, ốc nhồi,...) để nâng cao sức cạnh tranh và xâu dựng thị trường tiêu thụ.
Ba là: Tập trung đẩy mạnh tuyên truyền, chuyển giao các ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới (Mô hình ứng dụng công nghệ sinh học trong quản lý môi trường ao nuôi; mô hình nuôi cá “sông trong ao”; mô hình nuôi đặc sản bản địa) gắn với các trang trại, khu nuôi tập trung trên địa bàn.
Bốn là: Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước lĩnh vực chuyên ngành theo quy định của Luật Thủy sản năm 2017 và các văn bản dưới luật; trọng tâm là quản lý nuôi theo quy trình đảm bảo ATTP, chất lượng hàng hóa có truy xuất nguồn gốc, chất lượng vật tư đầu vào, khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Năm là: Nâng cao hiệu quả công tác phối hợp giữa các ngành, các cấp, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, Liên minh Hợp tác xã, Hội nông dân trong chỉ đạo, tuyên truyền, lồng ghép, xã hội hóa các nguồn lực đầu tư hoàn thành mục tiêu phát triển thủy sản giai đoạn 2021-2025.