Nhảy đến nội dung

Hiện tượng ấm lên toàn cầu gây hậu quả sớm hơn và nghiêm trọng hơn so với dự đoán trước đây

Nghe bài viết Play Pause

Báo cáo “Biến đổi khí hậu” của nhóm công tác 1 - Ban liên Chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) với sự tham gia của 600 nhà khoa học thuộc 40 quốc gia đã đưa ra “cơ sở khoa học” đánh giá những hiểu biết khoa học hiện nay cùng những tác động của tự nhiên và của con người đến biến đổi khí hậu; những thay đổi quan sát được của khí hậu; cơ sở khoa học xác định những nguyên nhân khác gây ra biến đổi khí hậu và dự đoán biến đổi khí hậu trong tương lai. Dưới đây là những nội dung tóm lược chính của báo cáo dành cho các nhà hoạch định chính sách:



Một là: Nồng độ khí CO2 , CH4 , NO2 trong khí quyển đã tăng lên đáng kể do các hoạt động của con người kể từ năm 1750 và vượt xa các trị số vào thời kỳ tiền công nghiệp, được xác định từ các lõi băng hàng ngàn năm tuổi. Nồng độ khí CO2 tăng lên toàn cầu chủ yếu do việc sử dụng các nguyên liệu hoá thạch (than đá, khí thiên nhiên, dầu mỏ... ); còn nồng độ CH4, NO2 tăng lên là do phát triển nông nghiệp. CO2 là khí nhà kính quan trọng nhất. Theo số liệu điều tra từ các lõi băng vĩnh cửu trong 650 ngàn năm qua, nồng độ CO2 trong khí quyển giao động từ 180 - 300 ppm (phần triệu đơn vị), nhưng đến năm 2005 đã tăng lên 379 ppm. Trong 10 năm từ 1995 - 2005 tăng trung bình mỗi năm 1,9 ppm lớn hơn thời kỳ 1960 - 2005 (1,4 ppm) là thời kỳ có số liệu quan trắc đầy đủ nồng độ CO2 trong khí quyển.



Hai là: Sự ấm lên của hệ thống khí hậu là điều rõ ràng. Số liệu quan trắc cho thấy nhiệt độ không khí và nhiệt độ nước các đại dương, tính trung bình toàn cầu tăng lên; các lớp tuyết, băng tan chảy trên diện rộng; mực nước biển trung bình toàn cầu đang tăng lên.



Mười một năm qua 1995 - 2006 nằm trong số 12 năm nóng nhất kể từ khi có số liệu quan trắc nhiệt độ bề mặt trái đất (1850). Mức tăng trung bình trong 100 năm (1906 - 2005) là 0,74 0C. Các số liệu quan trắc vệ tinh cũng cho thấy lớp khí quyển thấp và trung bình trong tầng đối lưu đang ấm lên tương tự như ở mặt đất. Số liệu quan trắc từ năm 1961 đến nay cho thấy nhiệt độ trung bình của nước đại dương đang tăng dần tới độ sâu 3.000 m làm cho nước dãn nở, cùng với việc tan chảy các sông băng và lớp tuyết phủ ở hai bán cầu đã làm cho mực nước biển dâng cao hơn. Từ 1961 - 2003 mực nước biển trung bình toàn cầu tăng 1,8 mm/năm, riêng giai đoạn 1993 - 2003 mức độ tăng nhanh hơn đạt khoảng 3,1 mm/năm.



Ba là: Trên qui mô lục địa, khu vực và các vùng lãnh thổ bao quanh các đại dương đã quan sát thấy hàng loạt biến động dài hạn của các yếu tố khí hậu. Đó là những biến động về nhiệt độ và lớp phủ băng trên Bắc cực; những biến động trên diện rộng về lượng giáng thuỷ, độ mặn nước đại dương, phân bố gió và những hiện tượng thời tiết cực đoan như khô hạn, mưa lớn, nắng nóng và cường độ các trận bão nhiệt đới.



Trong 100 năm qua nhiệt độ trung bình Bắc cực tăng với cường độ gấp 2 lần so với mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu. Quan trắc vệ tinh cho thấy từ năm 1978 diện tích phủ băng trung bình năm trên Bắc cực giảm đi 2,7% trong một thập niên. Từ 1900 đến nay lượng mưa biến động theo xu thế dài hạn trên các vùng rộng lớn. Các khu vực phía Đông của Bắc Mỹ, Nam Mỹ; khu vực phía Bắc châu Âu, phía Bắc và Trung á lượng mưa có xu hướng tăng lên. Ngược lại các vùng Địa Trung Hải, Nam châu Phi, và nhiều phần thuộc Nam á lại bị khô hạn. Từ những năm 1970 trên nhiều vùng rộng lớn tình trạng khô hạn xảy ra dữ dội hơn, đặc biệt là khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới.. Các trận bão nhiệt đới trên Đại Tây Dương, Thái Bình Dương có biểu hiện hoạt động tăng lên.



Bốn là: Những thông tin về cổ khí hậu củng cố thêm nhận thức cho rằng hiện tượng ấm lên toàn cầu trong nửa thế kỷ qua là không bình thường, ít nhất là trong vòng 1.300 năm qua. Thời gian qua trên 2 cực trái đất nhiệt độ ấm hơn đáng kể so với thời kỳ cách đây khoảng 125 ngàn năm, khi lượng băng trên hai cực giảm làm mực nước biển tăng lên từ 4 đến 6m. Nhiệt độ trung bình bán cầu Bắc trong nửa sau của thế kỷ 20 cao hơn mọi giai đoạn 50 năm trong suốt 500 năm qua và có khả năng là cao nhất trong gần 1.300 năm qua.



Năm là: Phần lớn lượng tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu từ giữa thế kỷ 20 rất có khả năng là do việc tăng nồng độ khí nhà kính nhân tạo. Có thể thấy rằng, ngày nay những tác động của con người đã lan rộng sang những khía cạnh khác của khí hậu, bao gồm sự ấm lên của các đại dương, sự thay đổi nhiệt độ trung bình, nhiệt độ cực trị và phân bố gió trên các lục địa.



Ngoài những đánh giá, nhận định trên báo cáo cũng đưa ra một số nhận định cho tương lai:



Thứ nhất là: Theo các kịch bản phát khí thải nhà kính do IPCC đưa ra, các mô hình số dự tính trong 2 thập kỷ tới cứ mỗi thập kỷ trái đất sẽ ấm lên khoảng 0,200C. Thậm chí nếu khống chế được các khí thải nhà kính, aerosols (Chủ yếu là các chất sulphate sơ cấp, carbon hữu cơ, carbon đen, nitrate và bụi) được giữ nguyên bằng mức năm 2000, thì trái đất vẫn nóng lên khoảng 0,10C mỗi thập kỷ.



Thứ hai là: Việc tiếp tục phát khí thải nhà kính bằng mức hiện nay hoặc cao hơn sẽ làm trái đất tiếp tục ấm thêm và dẫn đến nhiều thay đổi trong hệ thống khí hậu trong thế kỷ 21. Những thay đổi này rất có khả năng lớn hơn so với những gì đã xảy ra trong thế kỷ 20. Theo kết quả tính toán trên mô hình tối thiểu đến cuối thế kỷ 21 nhiệt độ trung bình toàn cầu có thể tăng lên 1,80C, tối đa có thể đạt tới 40C. Mực nước biển trung bình toàn cầu tối thiểu có thể tăng đến 0,18 m và tối đa có thể tăng đến 0,59 m.



Thứ ba là: Công tác dự báo đã đạt được độ tin cậy cao trong dự báo quá trình ấm lên toàn cầu và diễn biến theo khu vực, trong đó có sự thay đổi về phân bố gió, giáng thuỷ và một số yếu tố liên quan đến băng tuyết và các hiện tượng thời tiết cực đoan. Quá trình ấm lên sẽ mạnh nhất trên lục địa và các vĩ độ cao nhất phía Bắc; Băng biển trên cả Bắc cực và Nam cực sẽ giảm mạnh; Các đợt nắng nóng, mưa lớn sẽ xuất hiện thường xuyên hơn; các xoáy thuận nhiệt đới (Bão, Cuồng phong) sẽ mạnh hơn, tốc độ gió giật cũng lớn hơn và mưa lớn cũng nhiều hơn.



Như vậy bất cứ một quốc gia nào trên thế giới cũng cần phải có một chính sách, chiến lược toàn cầu trong việc giảm thiểu khí nhà kính, thực hiện Nghị định thư KYOTO một cách triệt để, thực tế mới mong làm giảm các tác động tiêu cực tới sự biến đổi khí hậu toàn cầu trong tương lai.

Tác giả bài viết:  Hoàng Như Lô