Trong nhiều năm qua trên địa bàn đã hình thành một số doanh nghiệp, cơ sở khai thác, chế biến, kinh doanh các nguồn tài nguyên. Theo điều tra gần đây toàn huyện hiện có 5 cơ sở chuyên khai thác, chế biến, kinh doanh các loại quặng, trên chục doanh nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ tắm nước khoáng nóng; các xã ven sông Đà có các điểm khai thác, buôn bán cát sỏi phục vụ xây dựng. Ngoài ra hàng năm trên địa bàn còn khá nhiều cơ sở thực hiện XDCB có hoạt động khai thác đất, đá, đào đắp liên quan tới tài nguyên đất phải nộp phí bảo vệ tài nguyên. Theo đánh giá của các cơ quan chức năng với mức phí bảo vệ môi trường khiêm tốn như hiện nay 1.000đ/m3 đất, nước, quặng nếu thu hết hàng năm có thể vẫn được hàng tỷ đồng.
Năm 2007 khi triển khai nhiệm vụ thu phí bảo vệ môi trường, sơ bộ ngành thuế huyện đã giao chỉ tiêu thu vài trăm triệu đồng (riêng doanh nghiệp khai thác khoáng sản dự kiến 50 triệu đồng). Tổng thu các loại phí dự kiến 600 triệu đồng. Qua tổng hợp từ cơ quan thuế, năm 2007 dù Chi cục thuế huyện hoàn thành 600 triệu đồng thu phí, lệ phí song lĩnh vực phí bảo vệ môi trường vẫn thất thu lớn. Ngay doanh nghiệp lớn là Công ty cổ phần khai thác khoáng sản Sông Đà; Công ty dịch vụ Sông Thao... cũng không nộp được phí bảo vệ môi trường. Còn lại các xã như La Phù, Tân Phương, Bảo Yên... dù thường xuyên có nhiều hoạt động khai thác khoáng sản nhưng quản lý, thu phí tài nguyên không rõ, đạt thấp. Qua trao đổi với các đồng chí có trách nhiệm trong quản lý ở xã, huyện, doanh nghiệp thấy rõ nguyên nhân thất thu.
Thứ nhất là ý thức chấp hành tuân thủ qui định pháp luật còn thấp. Điều này thể hiện rõ nhiều cơ sở, doanh nghiệp, cá nhân đã tham gia vào khai thác tài nguyên lâu năm, qui mô lớn song vẫn không tự giác tuân thủ việc nộp phí bảo vệ môi trường, thoái thác trốn tránh. Đơn cử như doanh nghiệp cổ phần khai thác khoáng sản Sông Đà năm 2007 được giao chỉ tiêu nộp phí môi trường 50 triệu đồng, nhưng với lý do hoạt động kinh doanh thua lỗ công ty thoái thác trốn tránh nộp phí. Tương tự như vậy Công ty cổ phần nghỉ dưỡng nước khoáng Sông Thao không nộp được phí. Đặc biệt các hộ kinh doanh dịch vụ nước khoáng nóng ở La Phù khai thác nước khoáng khá lâu năm, song ý thức tự giác nộp phí vẫn kém. Mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác như khai thác cát sỏi trên sông Đà, đào đất làm đường, làm nhà song các tổ chức và cá nhân không có ý thức chấp hành việc nộp phí. Ngay một số doanh nghiệp XDCB đang khai thác hàng vạn m3 đất đắp đường, khi được thông báo nộp phí vẫn lý sự: Nội dung này không được đưa vào chi phí công trình!
Không riêng gì tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên mà chính quyền các xã có tài nguyên cũng xem nhẹ việc thu phí. Thậm chí có xã còn coi thường, phó thác cho số ít người tự tung, tự tác theo kiểu tự thu, làm sai lệch hẳn ý nghĩa của việc quản lý và thu phí bảo vệ tài nguyên.
Thứ hai là công tác tổ chức quản lý thu phí còn lỏng lẻo. Theo qui định của Luật thuế và cơ chế quản lý thu hiện nay việc thu phí bảo vệ tài nguyên nằm trong phần ủy nhiệm cho xã, còn lại một số doanh nghiệp lớn do Chi cục thuế của huyện thực hiện. Trong thực tế công tác ủy nhiệm thu khoản phí môi trường nói riêng và các khoản lệ phí nói chung không được coi trọng. Ngay một số xã có nhiều hoạt động khoáng sản như La Phù, Tân Phương, Bảo yên... việc điều tra, nắm rõ số hộ kinh doanh, sản lượng khoáng sản tài nguyên, khai thác để có kế hoạch thu phí vẫn làm chưa khoa học, chặt chẽ. Hầu hết khoán gọn theo mức ước lượng, còn lại để các hộ tự làm, mức thu thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Các xã khác có tài nguyên quặng, cát sỏi, đất cũng giao cho một số đầu nậu, cai tự làm, tự nộp không bóc tách được phí tài nguyên. Đối với các doanh nghiệp do Chi cục quản lý thu phí chưa rõ ràng và trách nhiệm quản lý.
Để quản lý tốt việc thu phí tài nguyên, nhằm tăng thu cho ngân sách, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm hiệu quả nguồn tài nguyên trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức trách nhiệm, hiểu biết đến các đối tượng xã hội. Đặc biệt đối với những địa bàn có nhiều hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng sản như La Phù, Tân Phương, Đào Xá, Bảo Yên, các xã dọc sông Đà có các bãi cát sỏi... Các cơ quan quản lý Nhà nước như Phòng tài nguyên & môi trường, Phòng kinh tế, Phòng tài chính - kế hoạch... Các xã cần điều tra thống kê qui mô, mức độ số lượng các cơ sở khai thác tài nguyên từng loại để có biện pháp quản lý. Trên cơ sở đánh giá thống kê ngành tài chính có chỉ tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị quản lý thu. Ngành thuế tăng cường quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ quản lý thu phí cho các đội thuế, tổ ủy nhiệm thu xã. Cùng với đó huyện cần có biện pháp đôn đốc thu, xử lý những tổ chức, cá nhân không chấp hành, đồng thời khen thưởng những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt.
Năm 2007 khi triển khai nhiệm vụ thu phí bảo vệ môi trường, sơ bộ ngành thuế huyện đã giao chỉ tiêu thu vài trăm triệu đồng (riêng doanh nghiệp khai thác khoáng sản dự kiến 50 triệu đồng). Tổng thu các loại phí dự kiến 600 triệu đồng. Qua tổng hợp từ cơ quan thuế, năm 2007 dù Chi cục thuế huyện hoàn thành 600 triệu đồng thu phí, lệ phí song lĩnh vực phí bảo vệ môi trường vẫn thất thu lớn. Ngay doanh nghiệp lớn là Công ty cổ phần khai thác khoáng sản Sông Đà; Công ty dịch vụ Sông Thao... cũng không nộp được phí bảo vệ môi trường. Còn lại các xã như La Phù, Tân Phương, Bảo Yên... dù thường xuyên có nhiều hoạt động khai thác khoáng sản nhưng quản lý, thu phí tài nguyên không rõ, đạt thấp. Qua trao đổi với các đồng chí có trách nhiệm trong quản lý ở xã, huyện, doanh nghiệp thấy rõ nguyên nhân thất thu.
Thứ nhất là ý thức chấp hành tuân thủ qui định pháp luật còn thấp. Điều này thể hiện rõ nhiều cơ sở, doanh nghiệp, cá nhân đã tham gia vào khai thác tài nguyên lâu năm, qui mô lớn song vẫn không tự giác tuân thủ việc nộp phí bảo vệ môi trường, thoái thác trốn tránh. Đơn cử như doanh nghiệp cổ phần khai thác khoáng sản Sông Đà năm 2007 được giao chỉ tiêu nộp phí môi trường 50 triệu đồng, nhưng với lý do hoạt động kinh doanh thua lỗ công ty thoái thác trốn tránh nộp phí. Tương tự như vậy Công ty cổ phần nghỉ dưỡng nước khoáng Sông Thao không nộp được phí. Đặc biệt các hộ kinh doanh dịch vụ nước khoáng nóng ở La Phù khai thác nước khoáng khá lâu năm, song ý thức tự giác nộp phí vẫn kém. Mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác như khai thác cát sỏi trên sông Đà, đào đất làm đường, làm nhà song các tổ chức và cá nhân không có ý thức chấp hành việc nộp phí. Ngay một số doanh nghiệp XDCB đang khai thác hàng vạn m3 đất đắp đường, khi được thông báo nộp phí vẫn lý sự: Nội dung này không được đưa vào chi phí công trình!
Không riêng gì tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên mà chính quyền các xã có tài nguyên cũng xem nhẹ việc thu phí. Thậm chí có xã còn coi thường, phó thác cho số ít người tự tung, tự tác theo kiểu tự thu, làm sai lệch hẳn ý nghĩa của việc quản lý và thu phí bảo vệ tài nguyên.
Thứ hai là công tác tổ chức quản lý thu phí còn lỏng lẻo. Theo qui định của Luật thuế và cơ chế quản lý thu hiện nay việc thu phí bảo vệ tài nguyên nằm trong phần ủy nhiệm cho xã, còn lại một số doanh nghiệp lớn do Chi cục thuế của huyện thực hiện. Trong thực tế công tác ủy nhiệm thu khoản phí môi trường nói riêng và các khoản lệ phí nói chung không được coi trọng. Ngay một số xã có nhiều hoạt động khoáng sản như La Phù, Tân Phương, Bảo yên... việc điều tra, nắm rõ số hộ kinh doanh, sản lượng khoáng sản tài nguyên, khai thác để có kế hoạch thu phí vẫn làm chưa khoa học, chặt chẽ. Hầu hết khoán gọn theo mức ước lượng, còn lại để các hộ tự làm, mức thu thấp hơn rất nhiều so với thực tế. Các xã khác có tài nguyên quặng, cát sỏi, đất cũng giao cho một số đầu nậu, cai tự làm, tự nộp không bóc tách được phí tài nguyên. Đối với các doanh nghiệp do Chi cục quản lý thu phí chưa rõ ràng và trách nhiệm quản lý.
Để quản lý tốt việc thu phí tài nguyên, nhằm tăng thu cho ngân sách, nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm hiệu quả nguồn tài nguyên trong thời gian tới cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức trách nhiệm, hiểu biết đến các đối tượng xã hội. Đặc biệt đối với những địa bàn có nhiều hoạt động khai thác, kinh doanh khoáng sản như La Phù, Tân Phương, Đào Xá, Bảo Yên, các xã dọc sông Đà có các bãi cát sỏi... Các cơ quan quản lý Nhà nước như Phòng tài nguyên & môi trường, Phòng kinh tế, Phòng tài chính - kế hoạch... Các xã cần điều tra thống kê qui mô, mức độ số lượng các cơ sở khai thác tài nguyên từng loại để có biện pháp quản lý. Trên cơ sở đánh giá thống kê ngành tài chính có chỉ tiêu kế hoạch giao cho các đơn vị quản lý thu. Ngành thuế tăng cường quản lý, hướng dẫn nghiệp vụ quản lý thu phí cho các đội thuế, tổ ủy nhiệm thu xã. Cùng với đó huyện cần có biện pháp đôn đốc thu, xử lý những tổ chức, cá nhân không chấp hành, đồng thời khen thưởng những cá nhân, tổ chức thực hiện tốt.
Tác giả bài viết: Quốc Vượng