Những khó khăn vướng mắc trong việc phát triển nông nghiệp theo hướng trang trại và vai trò của Nhà nước trong việc giúp đỡ, tạo điều kiện để thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển
Lâm Thao là huyện nằm trong vùng kinh tế động lực của tỉnh Phú Thọ, có diện tích tự nhiên là 9.754,59 ha, dân số là 101.422 người, gồm 12 xã và 2 thị trấn. Với vị trí địa lý thuận lợi cách trung tâm TP.Việt Trì 10 km về phía tây, có hệ thống đường Quốc lộ, đường sắt, đường sông chạy qua, là cửa ngõ giao lưu hàng hoá giữa thủ đô Hà Nội với vùng tây bắc của Tổ quốc, có nhiều nhà máy, xí nghiệp, cơ quan, trường học của Trung ương và của tỉnh đóng trên địa bàn.
Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát kinh tế thấp, song do phát huy được tiềm năng, lợi thế, kết hợp với sự cố gắng, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân trong huyện, kinh tế - xã hội của huyện có bước phát triển khá toàn diện. Giá trị sản xuất tăng bình quân 18%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; văn hoá - xã hội có nhiều khởi sắc; an ninh - chính trị ổn định và giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
Tổng số lao động trong toàn huyện là 55.814 lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 65%, tuy nhiên thời gian lao động sản xuất nông - lâm - thuỷ sản chỉ chiếm 50 - 60%. Vì vậy đa số nông dân trong lúc nhàn dỗi phải tham gia các ngành nghề lao động khác như phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác…Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 còn 9,8% chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp thấp chỉ từ 1.600 m2 đến 1.800 m2 tương đương từ 4-5 sào bắc bộ/lao động nông nghiệp.
Năm 2006, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 330.849,6 triệu đồng (theo giá hiện hành) chiếm 39,01% trong cơ cấu kinh tế của huyện, trong đó trồng trọt đạt 172.788,9 triệu đồng, chiếm 52,2%; chăn nuôi, thuỷ sản đạt 145.694,6 triệu đồng chiếm 44%; dịch vụ trong nông nghiệp đạt 12.366 triệu đồng chiếm 3,8%. Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đạt 35,3 triệu đồng/ha; tỷ lệ cơ giới hoá trong khâu làm đất và vận chuyển đạt trên 30%, tưới tiêu trên 70% diện tích.
Kết quả thu được trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trên của huyện Lâm Thao gắn với kết quả của công tác chỉ đạo thực hiện DĐRĐ và chủ trương phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Trên lĩnh vực DĐRĐ, đến nay trên địa bàn huyện Lâm Thao đã có 12.153 hộ tham gia, đạt 76,63% kế hoạch, số thửa đất giảm được là 35.974 thửa, tỷ lệ giảm 65,93%.
Trong đó có 9 xã đã hoàn thành kế hoạch đề ra, 4 xã đang thực hiện tiếp, sẽ kết thúc trong năm 2007. Bình quân số thửa/hộ là 5,9 thửa/hộ (đến cuối năm 2007, bình quân số thửa/hộ là 5 thửa).
Kết quả thực hiện được trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là đã có nhiều vùng chuyên canh, thâm canh cao như vùng sản xuất rau an toàn ở Bản Nguyên, Tứ Xã, Cao Xá, Vĩnh Lại, các vùng chuyên nuôi trồng thuỷ sản, vùng sản xuất lúa giống, ngô giống…đặc biệt đã hình thành 69 trang trại phát triển đạt tiêu chí trang trại kinh doanh tổng hợp. Trong đó có 2 trang trại trồng cây hàng năm, 38 trang trại chuyên chăn nuôi, 9 trang trại nuôi trồng thuỷ sản và 20 trang trại kinh doanh tổng hợp.
Tổng diện tích các trang trại này là 112 ha (Bình quân 1,6ha/trang trại).
Tổng số lao động của các trang trại là 730 lao động.Trong đó:
- Vốn tự có là 13.123 triệu đồng.
- Vốn tín dụng, ngân hàng 6.652 triệu đồng.
- Vốn khác 272 triệu đồng.
Tổng doanh thu của các trang trại là 23.090 triệu đồng.Trong đó:
- Trồng trọt là 747 triệu đồng.
- Chăn nuôi là 19.502 triệu đồng.
- Nuôi trồng thuỷ sản là 2.821 triệu đồng.
- Lâm nghiệp là 20 triệu đồng.
Doanh thu bình quân của 1 trang trại đạt 334,6 triệu đồng/năm, lãi bình quân của 1 trang trại là 66 triệu đồng/năm. Phần lớn các chủ trang trại đều là người của địa phương.
Để hình thành quy mô diện tích của các trang trại, ngoài việc thực hiện quy vùng sản xuất nông nghiệp của xã, dồn đổi quỹ đất 5% để cho các chủ hộ thuê, các chủ hộ phải tự chuyển đổi, thuê quyền sử dụng đất của người khác. Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để hình thành các trang trại hầu như chưa diễn ra, dẫn tới quy mô của trang trại nhỏ bé, chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư phát triển trang trại lâu dài, đặc biệt là đầu tư theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả trên 1 đơn vị diện tích do các GCN QSD đất đều ghi quyền sử dụng đến 2013.
Thực tế hiện nay cho thấy, trên địa bàn huyện Lâm Thao có nhiều hộ được giao ruộng theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ nhưng không còn lao động để sản xuất; một số hộ đi làm ăn xa (đi nước ngoài, đi vào các khu công nghiệp) không muốn canh tác nông nghiệp. Những hộ này muốn trả đất ra cho địa phương quản lý, nhưng do các thửa đất ở cách xa nhau, xã chưa giao được cho ai quản lý, do manh mún… đã dẫn tới hiệu quả sử dụng đất không cao. Bên cạnh đó cũng có một số hộ dân có điều kiện sản xuất nông nghiệp: Có vốn, có lao động, có kỹ thuật… muốn đầu tư xây dựng trang trại nông nghiệp, nhưng do chưa hình thành thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do đó nếu chỉ thực hiện các hợp đồng thuê đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất … thì các hộ không yên tâm.
Về lĩnh vực chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Luật Đất đai năm 1993 đã cho phép người sử dụng đất khi có GCN quyền sử dụng đất (kể cả đất nông nghiệp) được thực hiện các quyền của mình trong đó có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất; điều 106 Luật Đất đai năm 2003 đã quy định rõ người sử dụng đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngày 21/6/2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1126/2007/NQ-UBTVQH11 “Quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp”.
Nghị quyết nêu rõ: Hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất làm muối của mỗi hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp là:
- Đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 4 ha (đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại, trong đó có Phú Thọ).
- Đất trồng cây lâu năm: 20 ha đối với với xã đồng bằng, 50 ha đối với xã trung du, miền núi.
- Đất rừng sản xuất (rừng trồng): 50 ha đối với với xã đồng bằng, 100 ha đối với xã trung du, miền núi.
Như vậy chủ trương cho chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của Nhà nước đã rõ ràng, đã cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật, tuy nhiên trên thực tế chủ trương này chưa được người dân hiểu và thực hiện là đối với đất cây trồng hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất trồng rừng sản xuất, do đó đã hạn chế quá trình tích tụ ruộng đất, hạn chế thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dẫn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao.
Từ tình hình thực tế đang diễn ra quá trình sử dụng đất nông nghiệp manh mún nhỏ lẻ còn phổ biến hiện nay với việc hình thành các mô hình trang trại đem lại hiệu quả kinh tế cao và sự định hướng, mở đường của Nhà nước trong việc khuyến khích trang trại phát triển, tích tụ quy mô sản xuất nông nghiệp hợp lý, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhất là Luật Đất đai để người dân hiểu rõ hơn nữa về quyền và lợi ích của mình khi có GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp để từ đó có thể chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển.
Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, điểm xuất phát kinh tế thấp, song do phát huy được tiềm năng, lợi thế, kết hợp với sự cố gắng, nỗ lực của Đảng bộ, chính quyền và toàn thể nhân dân trong huyện, kinh tế - xã hội của huyện có bước phát triển khá toàn diện. Giá trị sản xuất tăng bình quân 18%/năm, cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực; văn hoá - xã hội có nhiều khởi sắc; an ninh - chính trị ổn định và giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới.
Tổng số lao động trong toàn huyện là 55.814 lao động, trong đó lao động nông nghiệp chiếm 65%, tuy nhiên thời gian lao động sản xuất nông - lâm - thuỷ sản chỉ chiếm 50 - 60%. Vì vậy đa số nông dân trong lúc nhàn dỗi phải tham gia các ngành nghề lao động khác như phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ và các ngành nghề khác…Tỷ lệ hộ nghèo năm 2006 còn 9,8% chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp thấp chỉ từ 1.600 m2 đến 1.800 m2 tương đương từ 4-5 sào bắc bộ/lao động nông nghiệp.
Năm 2006, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 330.849,6 triệu đồng (theo giá hiện hành) chiếm 39,01% trong cơ cấu kinh tế của huyện, trong đó trồng trọt đạt 172.788,9 triệu đồng, chiếm 52,2%; chăn nuôi, thuỷ sản đạt 145.694,6 triệu đồng chiếm 44%; dịch vụ trong nông nghiệp đạt 12.366 triệu đồng chiếm 3,8%. Giá trị sản xuất trên đơn vị diện tích đạt 35,3 triệu đồng/ha; tỷ lệ cơ giới hoá trong khâu làm đất và vận chuyển đạt trên 30%, tưới tiêu trên 70% diện tích.
Kết quả thu được trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp trên của huyện Lâm Thao gắn với kết quả của công tác chỉ đạo thực hiện DĐRĐ và chủ trương phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá.
Trên lĩnh vực DĐRĐ, đến nay trên địa bàn huyện Lâm Thao đã có 12.153 hộ tham gia, đạt 76,63% kế hoạch, số thửa đất giảm được là 35.974 thửa, tỷ lệ giảm 65,93%.
Trong đó có 9 xã đã hoàn thành kế hoạch đề ra, 4 xã đang thực hiện tiếp, sẽ kết thúc trong năm 2007. Bình quân số thửa/hộ là 5,9 thửa/hộ (đến cuối năm 2007, bình quân số thửa/hộ là 5 thửa).
Kết quả thực hiện được trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá là đã có nhiều vùng chuyên canh, thâm canh cao như vùng sản xuất rau an toàn ở Bản Nguyên, Tứ Xã, Cao Xá, Vĩnh Lại, các vùng chuyên nuôi trồng thuỷ sản, vùng sản xuất lúa giống, ngô giống…đặc biệt đã hình thành 69 trang trại phát triển đạt tiêu chí trang trại kinh doanh tổng hợp. Trong đó có 2 trang trại trồng cây hàng năm, 38 trang trại chuyên chăn nuôi, 9 trang trại nuôi trồng thuỷ sản và 20 trang trại kinh doanh tổng hợp.
Tổng diện tích các trang trại này là 112 ha (Bình quân 1,6ha/trang trại).
Tổng số lao động của các trang trại là 730 lao động.Trong đó:
- Vốn tự có là 13.123 triệu đồng.
- Vốn tín dụng, ngân hàng 6.652 triệu đồng.
- Vốn khác 272 triệu đồng.
Tổng doanh thu của các trang trại là 23.090 triệu đồng.Trong đó:
- Trồng trọt là 747 triệu đồng.
- Chăn nuôi là 19.502 triệu đồng.
- Nuôi trồng thuỷ sản là 2.821 triệu đồng.
- Lâm nghiệp là 20 triệu đồng.
Doanh thu bình quân của 1 trang trại đạt 334,6 triệu đồng/năm, lãi bình quân của 1 trang trại là 66 triệu đồng/năm. Phần lớn các chủ trang trại đều là người của địa phương.
Để hình thành quy mô diện tích của các trang trại, ngoài việc thực hiện quy vùng sản xuất nông nghiệp của xã, dồn đổi quỹ đất 5% để cho các chủ hộ thuê, các chủ hộ phải tự chuyển đổi, thuê quyền sử dụng đất của người khác. Việc nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để hình thành các trang trại hầu như chưa diễn ra, dẫn tới quy mô của trang trại nhỏ bé, chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư phát triển trang trại lâu dài, đặc biệt là đầu tư theo chiều sâu nhằm nâng cao hiệu quả trên 1 đơn vị diện tích do các GCN QSD đất đều ghi quyền sử dụng đến 2013.
Thực tế hiện nay cho thấy, trên địa bàn huyện Lâm Thao có nhiều hộ được giao ruộng theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ nhưng không còn lao động để sản xuất; một số hộ đi làm ăn xa (đi nước ngoài, đi vào các khu công nghiệp) không muốn canh tác nông nghiệp. Những hộ này muốn trả đất ra cho địa phương quản lý, nhưng do các thửa đất ở cách xa nhau, xã chưa giao được cho ai quản lý, do manh mún… đã dẫn tới hiệu quả sử dụng đất không cao. Bên cạnh đó cũng có một số hộ dân có điều kiện sản xuất nông nghiệp: Có vốn, có lao động, có kỹ thuật… muốn đầu tư xây dựng trang trại nông nghiệp, nhưng do chưa hình thành thị trường chuyển nhượng quyền sử dụng đất, do đó nếu chỉ thực hiện các hợp đồng thuê đất, chuyển đổi quyền sử dụng đất … thì các hộ không yên tâm.
Về lĩnh vực chuyển nhượng quyền sử dụng đất, Luật Đất đai năm 1993 đã cho phép người sử dụng đất khi có GCN quyền sử dụng đất (kể cả đất nông nghiệp) được thực hiện các quyền của mình trong đó có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất; điều 106 Luật Đất đai năm 2003 đã quy định rõ người sử dụng đất có quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất.
Ngày 21/6/2007, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 1126/2007/NQ-UBTVQH11 “Quy định về hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp của hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp”.
Nghị quyết nêu rõ: Hạn mức nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm, đất rừng sản xuất là rừng trồng, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất làm muối của mỗi hộ gia đình, cá nhân để sử dụng vào mục đích nông nghiệp là:
- Đất trồng cây hàng năm, nuôi trồng thuỷ sản là 4 ha (đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương còn lại, trong đó có Phú Thọ).
- Đất trồng cây lâu năm: 20 ha đối với với xã đồng bằng, 50 ha đối với xã trung du, miền núi.
- Đất rừng sản xuất (rừng trồng): 50 ha đối với với xã đồng bằng, 100 ha đối với xã trung du, miền núi.
Như vậy chủ trương cho chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp của Nhà nước đã rõ ràng, đã cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật, tuy nhiên trên thực tế chủ trương này chưa được người dân hiểu và thực hiện là đối với đất cây trồng hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất trồng rừng sản xuất, do đó đã hạn chế quá trình tích tụ ruộng đất, hạn chế thâm canh, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, dẫn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp không cao.
Từ tình hình thực tế đang diễn ra quá trình sử dụng đất nông nghiệp manh mún nhỏ lẻ còn phổ biến hiện nay với việc hình thành các mô hình trang trại đem lại hiệu quả kinh tế cao và sự định hướng, mở đường của Nhà nước trong việc khuyến khích trang trại phát triển, tích tụ quy mô sản xuất nông nghiệp hợp lý, các cấp uỷ Đảng, chính quyền cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhất là Luật Đất đai để người dân hiểu rõ hơn nữa về quyền và lợi ích của mình khi có GCN quyền sử dụng đất nông nghiệp để từ đó có thể chuyển đổi, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ngày càng phát triển.
Tác giả bài viết: Phan Văn Thảo - Phòng TN&MT H. Lâm Thao