Nhảy đến nội dung

Dồn dổi ruộng đất nông nghiệp - Kết quả thực hiện và nhiệm vụ trong thời gian tới

Nghe bài viết Play Pause
Cụ thể như sau:

1. Giảm số thửa đất, bố trí liền khu liền khoảnh:


- Toàn tỉnh có 253 xã triển  khai, đạt 92% tổng số xã.


- Số xã đã xây dựng phương án trình UBND cấp huyện phê duyệt là 244 xã (đạt 97% số xã triển khai), với diện tích là 11.738 ha, 129.120 hộ, 620.145 thửa đất.


- Đã dồn, đổi tại thực địa ở 244 xã, diện tích dồn, đổi là 9.944/11.738 ha, đạt 85% so với phương án và đạt 21% diện tích đất trồng lúa, với 103.514 hộ và 459.915 thửa đất. Sau dồn, đổi tại thực địa còn 251.323 thửa, giảm 45% số thửa khu vực tham gia dồn, đổi. Trong đó: Dồn, đổi ruộng đất tạo thành ô thửa lớn thực hiện ở 182 xã, với 8.193 ha, 79.759 hộ và 405.370 thửa đất, sau khi dồn, đổi tại thực địa còn 193.881 thửa, giảm 52 % số thửa; chuyển đổi ruộng đất liền khu liền khoảnh thực hiện ở 142 xã, với 1.668 ha và 57.442 thửa đất.


- Sau khi dồn, đổi ruộng đất, một số chỉ tiêu về ruộng đất có sự chuyển biến tích cực:


+ Tại khu vực dồn, đổi: Trước dồn, đổi ruộng đất có 459.915 thửa, bình quân 5 thửa/hộ và 214 m2/thửa. Sau dồn, đổi ruộng đất tại thực địa còn lại 251.323  thửa (giảm 208.592 thửa), bình quân mỗi hộ còn 2,7 thửa (giảm 2,3 thửa/hộ); diện tích bình quân mỗi thửa 390 m2.


+ Toàn tỉnh: Trước dồn, đổi có 2.165.893 thửa đất, bình quân 10 thửa đất/hộ và 224 m2/thửa đất. Sau dồn, đổi tại thực địa còn 1.957.349 thửa (giảm 208.592 thửa ), bình quân còn 9 thửa đất/hộ (giảm 01 thửa/hộ) và 243 m2/thửa đất.

2. Hình thành vùng sản xuất hàng hoá, chuyển dịch cơ cấu lao động:


Trong quá trình tổ chức thực hiện dồn, đổi ruộng đất, cùng với việc triển khai các chương trình nông nghiệp trọng điểm trên địa bàn tỉnh trong những năm qua đã và đang hình thành những vùng sản xuất tập trung theo hướng sản xuất hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao:


- Vùng sản xuất lương thực tiếp tục ổn định và mở rộng diện tích gieo trồng, duy trì diện tích lúa lai năng suất cao ở các huyện, thành, thị; một số nơi mở rộng diện tích lúa chất lượng tốt như: Lâm Thao, Hạ Hoà, Tam Nông và khôi phục giống lúa đặc sản: nếp gà gáy Yên Lập, nếp đặc sản ở Tân Sơn tạo thành sản phẩm đặc trưng của vùng và nâng cao hiệu quả sản xuất.


- Vùng cây ăn quả được mở rộng, một số huyện đã triển khai thực hiện các dự án phát triển những cây ăn quả có giá trị kinh tế như: Bưởi Đoan Hùng trên 1.000 ha; Hồng không hạt ở Gia Thanh trên 30 ha, Hồng Hạc Trì trồng mới được gần 4.000 cây và một số cây ăn quả khác.


- Vùng Thủy sản phát triển mạnh, nhiều địa phương đã chuyển từ đổi từ đất 1 vụ lúa không hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản nâng cao thu nhập, đặc biệt tại các huyện trọng điểm. Toàn tỉnh đã chuyển trên 600 ha từ đất lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản, đưa diện tích nuôi trồng thủy sản lên trên 8.500 ha, trong đó diện tích chuyên thuỷ sản là trên 4.300 ha.


- Ngoài ra, ở những xã vùng đồng bằng, ven đô thị, nhiều hộ gia đình chuyển  diện tích canh tác sang trồng hoa, hoặc chuyên rau cung cấp cho các đô thị mang lại hiệu quả kinh tế cao.


Đồng thời, trên địa bàn tỉnh đã hình thành nhiều trang trại sản xuất tập trung. Toàn tỉnh có trên 470 trang trại, tổng diện tích sử dụng trên 5.000 ha. Các trang trại đã thu hút được hàng ngàn lao động của địa phương và nâng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích.


Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, hình thành các vùng sản xuất tập trung trong nông nghiệp, ở hầu hết các địa phương, đặc biệt là các vùng đồng bằng và một số nơi có nghề truyền thống, một bộ phận lao động trong nông nghiệp chuyển sang làm các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ  khác, tạo sự chuyển biến về cơ cấu lao động trong nông thôn theo hướng tích cực.

3. Hệ thống giao thông, thủy lợi nội đồng được quy hoạch và phát triển:


Trong quá trình thực hiện Nghị quyết 18/NQ-TU, Ban chỉ đạo cấp tỉnh và cấp  huyện đã chỉ đạo các xã thực hiện dồn đổi ruộng đất gắn với việc lập quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2006 - 2010, trong đó đã dành quỹ đất để xây dựng hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng, đáp ứng cho yêu cầu phát triển lâu dài của các địa phương; nhiều địa phương đã đầu tư kinh phí hàng tỷ đồng, huy động hàng nghìn ngày công của nhân dân, đào đắp hàng vạn mét khối đất để hoàn thiện hệ thống giao thông, thuỷ lợi nội đồng đảm bảo việc tưới, tiêu chủ động, đi lại dễ dàng, giảm chi phí sản xuất. Toàn tỉnh đã bố trí diện tích gần 200 ha để mở rộng, hoàn thiện hệ thống hạ tầng đồng ruộng, điển hình là các xã: Tứ Xã, Vĩnh Lại (Lâm Thao), Điêu Lương, Phùng Xá (Cẩm Khê), Đỗ Xuyên, Lương Lỗ (Thanh Ba), Hương Nộn (Tam Nông) …

4. Quỹ đất công ích được tập trung:


Để việc quản lý, sử dụng đất công ích được chặt chẽ, hiệu quả, trong quá trình dồn, đổi ruộng đất các địa phương đã chỉ đạo thực hiện việc dồn quỹ đất công ích thành từng vùng tập trung đạt được kết quả ban đầu, những nơi dồn, đổi tập trung thành ô thửa lớn, có sự chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi mạnh mẽ việc dồn tập trung được quỹ đất công ích đạt kết quả khá. Tổng diện tích đất công ích đã dồn tập trung được trên 470 ha, nhiều nơi đã dồn quỹ đất công ích tập trung vào những vị trí thuận lợi để quy hoạch, khai thác nguồn lực từ đất như: chuyển mục đích sang đất ở để đấu giá đất quyền sử dụng đất đem lại nguồn thu đáng kể cho địa phương.


Nhiệm vụ tiếp tục chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới:


Việc thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TU trên địa bàn tỉnh đã đạt được kết quả nhất định và đã có tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp, sau khi nghe Ban cán sự Đảng UBND tỉnh báo cáo kết quả 3 năm thực hiện dồn đổi ruộng đất, Thường trực Tỉnh uỷ đã chỉ đạo các cấp, các ngành tiếp tục chỉ đạo thực hiện (tại Thông báo số 309-TB/TU ngày 28/3/2008 của Tỉnh uỷ Thông báo kết luận của Thường trực Tỉnh uỷ về tiếp tục thực hiện dồn đổi ruộng đất nông nghiệp theo Nghị quyết số 18-NQ/TU), cụ thể như sau:


- Các cấp uỷ Đảng cần chỉ đạo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết, đánh giá đúng, chính xác những kết quả đạt được, những khó khăn hạn chế và nguyên nhân. Tiến hành sơ kết từ cơ sở đến cấp huyện và tổ chức sơ kết ở cấp tỉnh vào đầu tháng 7 năm 2008. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khoá X) về nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Tỉnh uỷ sẽ tiếp tục vận dụng để chỉ đạo triển khai thực hiện nhiệm vụ này cho phù hợp;


- Tiếp tục chỉ đạo dồn, đổi ruộng đất ở những vùng có điều kiện sản xuất hàng hoá, các vùng được quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất, tạo điều kiện tích tụ ruộng đất để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá nhanh hơn. Đối với vùng núi, ruộng  đất phân tán, địa hình bậc thang thì chỉ đạo theo hướng các hộ chuyển đổi ruộng đất cho liền khu, liền khoảnh để tạo thuận lợi cho canh tác, giảm chi phí sản xuất;


- Từ kết quả dồn, đổi ruộng đất đã đạt được, tiếp tục chỉ đạo quy hoạch giao thông, thuỷ lợi nội đồng. Trước mắt triển khai ở những vùng có điều kiện sản xuất hàng hoá và thực hiện hoàn thành trong năm 2008;


- Dồn tập trung quỹ đất công ích thành vùng tập trung theo hướng giao quỹ đất công ích cho HTX nông nghiệp quản lý, sử dụng tạo điều kiện cho HTX để có điều kiện có tư liệu sản xuất, đồng thời áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất;


- Ban chỉ đạo các cấp chỉ đạo việc rà soát, bổ sung, chỉnh lý hồ sơ địa chính và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ sau khi thực hiện dồn đổi ruộng đất;


- Giao Sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khảo sát, xây dựng phương án dồn đổi diện tích đất đồi, rừng đã giao cho các hộ để khắc phục tình trạng đất đồi, rừng manh mún, nhằm phát triển hàng hoá tốt hơn;


- Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND các huyện, thành, thị cụ thể hoá Quy hoạch sản xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản của tỉnh thành Quy hoạch sử dụng đất trên địa bàn các huyện, thành, thị;


- Sở Tài chính phối hợp với Sở Tài nguyên và Môi trường nghiên cứu đề xuất với UBND tỉnh bố trí kinh phí tiếp tục thực hiện dồn, đổi ruộng đất và tìm nguồn lực để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông, thuỷ lợi nội đồng kết hợp với dồn, đổi ruộng đất nông nghiệp;


- Giao Uỷ ban kiểm tra của các cấp uỷ đảng xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra, giám sát việc thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TU của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ.


Yên Lập là huyện nằm trong vùng có cấu tạo địa chất phức tạp, địa hình đứt gãy sâu, phân đới mạnh và chia cắt, do đặc điểm của vùng có những cấu trúc địa tầng, kiến tạo như vậy đã tạo cho huyện có các loại hình khoáng sản như: nhóm khoáng sản kim loại chủ yếu là Sắt, Chì, Kẽm, Bạc; nhóm khoáng sản không kim loại như Pirit, Dolomít, Tale và Đá xây dựng….ngoài ra còn có một số nhóm khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường như đất Sét làm gạch, Cát, Sỏi… dọc theo Ngòi Lao, Ngòi Giành thuộc các xã Mỹ Lung, Mỹ Lương, Lương Sơn, Xuân An. Tuy mức độ không phong phú, đa dạng, trữ lượng không lớn như các huyện Thanh Sơn, Đoan Hùng song cũng cần được điều tra thăm dò, đánh giá về trữ lượng, chất lượng và có phương án quy hoạch cụ thể cho khai thác, chế biến và kinh doanh nhằm thúc đẩy kinh tế địa phương phát triển.


Qua khảo sát trên địa bàn huyện có 19 mỏ và điểm quặng, trong đó Đá có 10 mỏ, Than bùn 02 mỏ, quặng Sắt 03 mỏ, Chì Kẽm 03 mỏ, Chì Bạc 01 mỏ nằm rải rác phân tán trên địa bàn các xã, thị trấn trong huyện. Số doanh nghiệp được UBND tỉnh cấp phép khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản trên địa bàn huyện có 07 doanh nghiệp đang khai thác 6 điểm mỏ (đá xây dựng) với tổng diện tích là 34,63 ha và 01 doanh nghiệp đã được UBND tỉnh đồng ý về chủ trương, cho phép Công ty lập dự án đầu tư chế biến, khai thác quặng sắt không từ (Limomit) tại xóm Xuân Thượng xã Lương Sơn với diện tích là 7,04 ha.


Thực hiện Thông báo kết luận số 99/TB-UBND ngày 21/12/2007 và kết luận số 03/TB-UBND ngày 10/01/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh về một số biện pháp tăng cường công tác quản lý hoạt động khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản phi kim loại trên địa bàn tỉnh. UBND huyện đã tiến hành kiểm tra, rà soát tình hình hoạt động khai thác, quản lý khoáng sản trên địa bàn các xã, thị trấn; qua kiểm tra tại 7 doanh nghiệp đang khai thác mỏ việc chấp hành các thủ tục khai thác mỏ theo quy định pháp luật trên từng lĩnh vực như sau: 7/7 doanh nghiệp có xác nhận đăng ký cam kết bảo vệ môi trường; 6/7 doanh nghiệp có Giám đốc điều hành mỏ; 4/7 doanh nghiệp thực hiện ký quỹ phục hồi môi trường; 7/7 doanh nghiệp có đề án khai thác mỏ; 2/7 doanh nghiệp có hợp đồng thuê đất; năm 2007 các doanh nghiệp đã đóng góp nghĩa vụ tài chính với nhà nước với tổng số tiền trên 370 triệu đồng.


Qua kiểm tra cho thấy hoạt động khai thác và quản lý khoáng sản trên địa bàn huyện bước đầu đã có chuyển biến, ổn định, không có hiện tượng tranh chấp đất đai với nhân dân địa phương tại các khu vực khai thác mỏ; việc khai thác, chế biến kinh doanh khoáng sản cơ bản đã thực hiện theo quy định của pháp luật. Các đơn vị doanh nghiệp xin khai thác mỏ đều được UBND tỉnh cấp phép và hoàn chỉnh đầy đủ thủ tục hồ sơ trước khi khai thác theo quy định, trên địa bàn huyện không sảy ra hiện tượng khai thác khoáng sản trái phép.


Tuy nhiên, hoạt động khai thác, chế biến, kinh doanh và quản lý khoáng sản trên địa bàn huyện vẫn còn một số hạn chế:


Trong thời gian từ ngày 18-22/2/2008,Đoàn giám sát HĐND tỉnh Phú Thọ do đồng chí Ngô Đức Vượng - Uỷ viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND làm Trưởng đoàn đã tiến hành giám sát công tác quản lý, khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản trên địa bàn tỉnh, tham gia Đoàn giám sát có đồng chí Đặng Đình Vượng, TUV - Phó Chủ Tịch UBND tỉnh và Lãnh đạo các Sở: Xây dựng, Công nghiệp, Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường. Ngày 18/2/2008, tại Sở Tài nguyên và Môi

Tác giả bài viết:  Quách Văn Chiến - Phó Trưởng phòng Quản lý đất đai