Bộ Tài nguyên và Môi trường: Đẩy mạnh công tác lập hồ sơ địa chính và định giá đất
Theo đó, từ nay đến 2010 sẽ là "giai đoạn nước rút" phải hoàn thành, phủ kín những khu vực chưa được cấp GCNQSDĐ.
Về tiến độ lập hồ sơ địa chính, ông Trần Hùng Phi - Phó Vụ trưởng Vụ Đăng ký và TKĐĐ cho biết, đến 31/12/2007 cả nước đã cấp 13.999.394 GCNQSDĐ đối với đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trông thủy sản, 1.007.472 GCNQSDĐ đối với đất lâm nghiệp, 10.536.308 GCNQSDĐ đối với đất ở tại nông thôn, 3.139.686 GCNQSDĐ đối với đất ở đô thị, 80.791 GCNQSDĐ đối với đất chuyên dùng, 11.490 GCNQSDĐ đối với đất thuộc tôn giáo, tín ngưỡng.
Thống kê đến nay, cả nước có 11 tỉnh cấp GCN đạt trên 90%, 9 tỉnh đạt từ 80% đến 90%, 12 tỉnh đạt 70% đến dưới 80%, 32 tỉnh đạt dưới 70%. Tuy nhiên, do khâu đo đạc lập bản đồ địa chính của các địa phương còn chậm nên việc cấp GCN hiện nay vẫn dựa vào việc sử dụng các loại bản đồ tỷ lệ nhỏ, độ chính xác thấp, nhiều biến động. Ngay ở thành phố Hà Nội còn tồn 65.000 GCN chưa giao đến tay người sử dụng. Trong số mười giải pháp được các đại biểu thảo luận tại Hội nghị để khắc phục hạn chế này, có nhấn mạnh việc các địa phương khẩn trương lập "dự án tổng thể xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính". Những tháng cuối năm 2008 tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố trong cả nước phải thành lập xong Văn phòng Đăng kýđất đai.
Định giá đất được chia thành nhiều khung giá khác nhau, trong đó có ba nhóm chính: Đất nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Đặc biệt, để xác định số lượng thửa đất của từng loại đất trong khu vực định giá, cán bộ địa chính cần tiến hành điều tra.
Theo ý kiến các đại biểu, đối với đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp có ba thông tin phải điều tra cơ bản là chủ sử dụng đất, vị trí đất, giá đất đã chuyển nhượng trong năm. Muốn xây dựng phương pháp định giá đất có tính khả thi, các cơ quan, ban, ngành, địa phương phải phối hợp đồng bộ, tạo mối liên hệ mật thiết với các cơ quan tài chính và tổ chức lập giá đất. Cụ thể, xây dựng khung giá đất đối với khu vực giáp ranh, UBND cấp tỉnh của các tỉnh trên địa bàn phải trao đổi và thỏa thuận với nhau về mức giá dự kiến ban hành. Trường hợp các bên liên quan không thỏa thuận được khung giá đất giáp ranh phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Về tiến độ lập hồ sơ địa chính, ông Trần Hùng Phi - Phó Vụ trưởng Vụ Đăng ký và TKĐĐ cho biết, đến 31/12/2007 cả nước đã cấp 13.999.394 GCNQSDĐ đối với đất sản xuất nông nghiệp và nuôi trông thủy sản, 1.007.472 GCNQSDĐ đối với đất lâm nghiệp, 10.536.308 GCNQSDĐ đối với đất ở tại nông thôn, 3.139.686 GCNQSDĐ đối với đất ở đô thị, 80.791 GCNQSDĐ đối với đất chuyên dùng, 11.490 GCNQSDĐ đối với đất thuộc tôn giáo, tín ngưỡng.
Thống kê đến nay, cả nước có 11 tỉnh cấp GCN đạt trên 90%, 9 tỉnh đạt từ 80% đến 90%, 12 tỉnh đạt 70% đến dưới 80%, 32 tỉnh đạt dưới 70%. Tuy nhiên, do khâu đo đạc lập bản đồ địa chính của các địa phương còn chậm nên việc cấp GCN hiện nay vẫn dựa vào việc sử dụng các loại bản đồ tỷ lệ nhỏ, độ chính xác thấp, nhiều biến động. Ngay ở thành phố Hà Nội còn tồn 65.000 GCN chưa giao đến tay người sử dụng. Trong số mười giải pháp được các đại biểu thảo luận tại Hội nghị để khắc phục hạn chế này, có nhấn mạnh việc các địa phương khẩn trương lập "dự án tổng thể xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu địa chính". Những tháng cuối năm 2008 tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố trong cả nước phải thành lập xong Văn phòng Đăng kýđất đai.
Định giá đất được chia thành nhiều khung giá khác nhau, trong đó có ba nhóm chính: Đất nông nghiệp, phi nông nghiệp và đất chưa sử dụng. Đặc biệt, để xác định số lượng thửa đất của từng loại đất trong khu vực định giá, cán bộ địa chính cần tiến hành điều tra.
Theo ý kiến các đại biểu, đối với đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp có ba thông tin phải điều tra cơ bản là chủ sử dụng đất, vị trí đất, giá đất đã chuyển nhượng trong năm. Muốn xây dựng phương pháp định giá đất có tính khả thi, các cơ quan, ban, ngành, địa phương phải phối hợp đồng bộ, tạo mối liên hệ mật thiết với các cơ quan tài chính và tổ chức lập giá đất. Cụ thể, xây dựng khung giá đất đối với khu vực giáp ranh, UBND cấp tỉnh của các tỉnh trên địa bàn phải trao đổi và thỏa thuận với nhau về mức giá dự kiến ban hành. Trường hợp các bên liên quan không thỏa thuận được khung giá đất giáp ranh phải báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Tác giả bài viết: Phạm Xuân Hợp