- Về hành vi vi phạm:
+ Theo Nghị định 117/NĐ-CP chỉ quy định về hành vi vi phạm các quy định về cam kết bảo vệ môi trường, đề án bảo vệ môi trường có tính chất và quy mô tương ứng với đối tượng phải lập bản cam kết bảo vệ môi trường. Tuy nhiên Nghị định 179/NĐ-CP lại tách các vi phạm quy định về cam kết bảo vệ môi trường thành 2 nhóm: thứ nhất là hành vi vi phạm quy định về thực hiện cam kết bảo vệ môi trường của đối tượng không thuộc đối tượng phải lập dự án đầu tư, thứ 2 là hành vi vi phạm quy định về thực hiện cam kết bảo vệ môi trường đối với đối tượng phải lập dự án đầu tư và bổ sung hình thức xử phạt đối với hành vi thực hiện không đúng, không đầy đủ chương trình quan trắc, giám sát môi trường theo quy định (về vị trí, tần suất hoặc thông số giám sát môi trường).
+ Đối với trường hợp một số cơ sở, khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung có nhiều điểm xả nước thải hoặc nhiều điểm thải bụi, khí thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường bị xử phạt theo từng điểm xả, thải đó.
+ Bổ sung một số hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường mà trước đây các Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không quy định như: hành vi vi phạm các quy định về túi ni lon thân thiện môi trường; hành vi vi phạm quy định về loài thực vật hoang dã, giống cây trồng, nấm, vi sinh vật hoặc bộ phận cơ thể, sản phẩm của loài động vật hoang dã, giống vật nuôi thuộc Danh mục Loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; hành vi vi phạm các quy định về quản lý cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, hành vi vi phạm các quy định về hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường; hành vi không cử đại diện có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tham gia buổi công bố quyết định thanh tra về bảo vệ môi trường hoặc không cử đại diện có thẩm quyền làm việc với đoàn thanh tra, kiểm tra về bảo vệ môi trường…
- Về hình thức, mức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả: Theo Nghị định này thì hình thức xử phạt chính là cảnh cáo và phạt tiền nhưng với mức xử phạt tối đa đối với cá nhân là 1 tỷ đồng; đối với tổ chức bằng 02 lần mức phạt tiền với cùng hành vi vi phạm hành chính của cá nhân là 2 tỷ đồng trong khi đó Nghị định 117/2009/NĐ-CP chỉ quy định mức phạt tối đa là 500 triệu đồng; đối với hình thức xử phạt bổ sung có quy định về hình thức đình chỉ hoạt động có thời hạn theo quy định tại khoản 2, Điều 25 Luật xử lý vi phạm hành chính từ 01 tháng đến 24 tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực thi hành; đối với biện pháp khắc phục hậu quả có quy định mới như buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện vi phạm hành chính gây ra và buộc chi trả kinh phí trưng cầu giám định, đo đạc và phân tích mẫu môi trường trong trường hợp có vi phạm về xả chất thải vượt quy chuẩn kỹ thuật môi trường hoặc gây ô nhiễm môi trường theo định mức, đơn giá hiện hành đối với các vi phạm gây ra theo quy định.
- Về thẩm quyền xử phạt: Quy định tăng mức xử phạt đối với người có thẩm quyền xử phạt như: đối với Chủ tịch UBND huyện và Chánh Thanh tra sở theo Nghị định 117/NĐ-CP thì phạt tiền đến 30 triệu đồng nhưng theo quy định tại Nghị định 179/NĐ-CP thì phạt tiền đến 50 triệu đồng; đối với Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Chánh Thanh tra Bộ TNMT, Tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường theo Nghị định 117/NĐ-CP thì phạt tiền đến 500 triệu đồng nhưng theo quy định tại Nghị định 179/NĐ-CP thì phạt tiền đến 1 tỷ đồng …
- Về lập biên bản vi phạm hành chính: Theo quy định của Điều 44 Nghị định 117/2009/NĐ-CP thì việc lập biên bản vi phạm hành chính thực hiện theo quy định tại Điều 55 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002: “Khi phát hiện vi phạm hành chính thuộc lĩnh vực quản lý, người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ phải kịp thời lập biên bản, trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản”. Như vậy, theo quy định này thì chỉ có những người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ khi phát hiện có vi phạm mới được lập biên bản.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 56 Nghị định 179/2013/NĐ-CP quy định cụ thể các chức danh có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường bao gồm:
a) Người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đang thi hành công vụ;
b) Công chức, viên chức đang thi hành nhiệm vụ bảo vệ môi trường của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tổng cục Môi trường; Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục Bảo vệ môi trường và Ban Quản lý các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện;
c) Công chức đang thi hành nhiệm vụ bảo vệ môi trường của ngành mình quản lý thuộc các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
d) Cán bộ, công chức, viên chức xã, phường, thị trấn đang thi hành nhiệm vụ bảo vệ môi trường trên địa bàn quản lý;
đ) Chiến sĩ công an nhân dân, công an xã, phường, thị trấn và cán bộ trật tự công cộng đang thi hành nhiệm vụ liên quan đến bảo vệ môi trường tại các khu đô thị, khu chung cư, thương mại, dịch vụ hoặc nơi công cộng;
e) Cán bộ, công chức, viên chức thuộc Ban Quản lý rừng, Ban Quản lý các vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu dự trữ sinh quyển đang thi hành nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Người có thẩm quyền lập biên bản vi phạm hành chính quy định tại khoản này khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải kịp thời lập biên bản để xử phạt hoặc chuyển đến người có thẩm quyền xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và Nghị định này.
Theo quy định trên thì không chỉ có người có thẩm quyền xử phạt đang thi hành công vụ khi phát hiện hành vi vi phạm mới có quyền lập biên bản mà cán bộ, công chức, viên chức, công an xã, phường, thị trấn, chiến sỹ công an nhân dân đang thi hành công vụ khi phát hiện hành vi vi phạm đều có quyền lập biên bản vi phạm.
Trên đây là một số quy định mới, cụ thể hơn so với Nghị định số 117/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi trường. Nghị định số 179/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 của Chính phủ có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/12/2013.
Tác giả bài viết: Hà Thị Mai Anh - Phó Chánh Thanh tra