Nhảy đến nội dung

Kết quả 3 năm thực hiện thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ

Nghe bài viết Play Pause
UBND huyện Cẩm khê đã có kế hoạch số 255/KH-UBND ngày 05/4/2007 và Quyết định số 365/QĐ-UBND ngày 05/04/2007 “V/v thành lập đoàn kiểm tra việc hoạt động khai thác, chế biến và kinh doanh khoáng sản trên địa bản huyện.


Kết quả kiểm tra như sau:


Trên địa bàn huyện có 44 tổ chức, cá nhân đang hoạt động khai thác mỏ sét và xây dựng cơ sở sản xuất gạch ngói trên địa bàn 17 xã, thị trấn với diện tích đất là 37,70 ha, bao gồm: 7 cơ sở hoạt động theo công nghệ lò đứng liên hoàn, diện tích đất là 19,48 ha: 37 cơ sở xây dựng lò thủ công, diện tích đất là 18,82 ha. Tổng khối lượng đất sét đã khai thác của tổ chức, cá nhân trong một năm là 51.078 m3 , làm ra gần 36 triệu viên gạch/năm. Trong đó: 7 cơ sở lò đứng bước đầu đã khai thác là 19.422m3/năm, sản lượng gạch là 13.595.400 viên/năm; Lò thủ công là 37 cơ sở khai thác là 31.656m3/năm, sản lượng gạch là 22.159.200 viên/ năm.



Với kết quả trên đã góp phần tạo công ăn việc làm cho người lao động trên địa bàn, tạo nguồn sản phẩm vật liệu xây dựng cho thị trường, tạo nguồn thu cho ngân sách. Phần lớn các cơ sở sản xuất đều có quyết định giao đất hoặc hợp đồng của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.



Trong việc chấp hành các chế độ chính sách và quy định của địa phương: Nhìn chung các cơ sở hoạt động sản xuất theo công nghệ lò đứng liên hoàn từ năm 2005 trở lại đây đều được cấp phép hoạt động, được giao đất và thực hiện việc ký hợp đồng thuê đất với các cơ quan có thẩm quyền( Sở TN & MT, UBND huyện và UBND xã...), đã ký giấy xác nhận cam kết bảo vệ môi trường.



Tuy nhiên trong hoạt động, các cơ sở còn bộc lộ một số điểm hạn chế đó là:



- Về hồ sơ giấy tờ hoạt động của các lò thủ công chưa dảm bảo trình tự thủ tục về đất đai, khoáng sản và môi trường theo quy định, chưa đóng góp  đầy đủ, kịp thời các khoản nghĩa vụ tài chính với Nhà nước, ít nhiều ảnh hưởng đến môi trường xung quanh do khói lò và chất thải rắn, trong đó điển hình là 11 hộ gia đình cá nhân (Phượng Vỹ 3 hộ; Tam Sơn 6 hộ; Tuy Lộc 2 hộ) đã tự ý hoạt động mà không đóng góp một khoản môi trường để hạn chế ô nhiễm môi trường từ nước thải; khuyến khích bảo vệ, sử dụng tiết kiệm hiệu quả nguồn nước. Đồng thời, nâng cao trách nhiệm của các cơ sở sản xuất công nghiệp, tạo động lực để các đơn vị cải tiến quy trình sản xuất, đầu tư trang thiết bị hiện đại nhằm làm giảm các thông số ô nhiễm môi trường và lưu lượng nước thải. Qua thực hiện thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải đã tăng cường sự phối hợp và trách nhiệm giữa các Sở, ngành, các cấp trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường; năng lực quản lý, tham mưu đề xuất của cơ quan chuyên môn về môi trường cũng được tăng lên. ở nhiều nơi, cả đô thị và vùng nông thôn môi trường đã có sự cải thiện ngày càng xanh, sạch thêm.



Tuy đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng trong thực tiễn triển khai thu phí nước thải công nghiệp trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn tồn tại: Một số cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chưa chấp hành nghiêm pháp luật về bảo vệ  môi trường, về nghĩa vụ nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp; một số đơn vị không lập tờ khai nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải hoặc lập tờ khai không đúng lưu lượng và các thông số ô nhiễm chịu phí có trong nước thải, việc thực hiện nộp phí đã được thẩm định và thông báo vào ngân sách nhà nước còn chậm, có doanh nghiệp sau khi được thẩm định và thông báo số phí phải nộp đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh xin miễn nộp vì lý do khó khăn ... .



Để làm tốt công tác thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp trong thời gian tới cần tiếp tục quán triệt triển khai sâu rộng Nghị định số 67/2003/NĐ-CP; Nghị định số 04/2007/NĐ-CP ngày 08/01/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 67/2003/NĐ-CP và Nghị quyết số 08/2004/NQ- HĐND- KXVI của HĐND tỉnh về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải tới các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân, các tổ chức, cơ quan, đơn vị, các doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh. Đồng thời bố trí sắp xếp tổ chức cán bộ chuyên môn theo dõi, xây dựng kế hoạch thực hiện đến từng địa bàn khu vực cụ thể để thu đúng, thu đủ số phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp tại tất cả các đơn vị sản xuất công nghiệp; Tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc các đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp thực hiện việc kê khai, nộp phí bảo vệ môi trường đối với nước thải công nghiệp theo quy định, kiên quyết xử lý theo quy định pháp luật những đơn vị cố tình không thực hiện.

Tác giả bài viết:  Nguyễn Thị Hồng Xiêm - Phòng Quản lý Môi trường