Năm 2007, Hệ thống thâm canh lúa cải tiến (SRI) được
Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận là một tiến bộ kỹ thuật (TBKT). Đây là một
TBKT được xây dựng dựa trên cơ sở của các biện pháp quản lý dinh dưỡng, quản lý
dịch hại và quản lý nước nhằm hướng tới việc canh tác lúa một cách có hiệu quả,
bền vững và bảo vệ môi trường. Tại tỉnh Phú Thọ, SRI được triển khai và áp dụng
từ năm 2008 đến nay đã thu được kết quả khá tốt. Năm 2014, diện tích áp dụng
SRI toàn tỉnh đạt trên 25 ngàn ha, chiếm hơn 30% diện tích gieo cấy của toàn
tỉnh góp phần giảm chi phí sản xuất, hạn chế sâu bệnh, tăng năng suất, sản
lượng và hiệu quả sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Hệ thống thâm canh lúa cải tiến SRI được áp dụng một cách
linh hoạt tùy theo điều kiện canh tác cụ thể, dựa trên 5 nguyên tắc như sau:
Nguyên tắc thứ nhất
là cấy mạ khỏe, mạ non: Gieo mạ thưa để cây mạ sinh trưởng khỏe,
đanh dảnh, gieo 0,1 kg thóc/1m2 đất. Cấy khi tuổi mạ 2 - 2,5 lá và
nên cấy mạ xúc, cấy nông tay để cây mạ không bị đứt rễ, nhanh hồi xanh, đẻ
nhánh khỏe.
Nguyên tắc thứ hai
là cấy thưa: Tùy chân đất, giống lúa và chế độ thâm
canh mà chọn mật độ cấy cho hợp lý. Đất càng tốt, thâm canh càng cao, giống lúa
sinh trưởng khỏe, cấy mạ non thì nên cấy mật độ thưa hơn và ngược lại. Mật độ
cấy thích hợp 30 - 35 khóm/m2 (đối với lúa lai), 35 - 40 khóm/m2
(đối với lúa thuần). Cấy 1 - 2 dảnh/khóm, cấy vuông mắt sàng.
Nguyên tắc thứ ba
là làm cỏ kết hợp sục bùn: Tiến hành làm cỏ, sục bùn 1 - 3 lần trong
khoảng thời gian 30 ngày đầu sau cấy, mỗi lần cách nhau 10 ngày. Việc này sẽ
giúp cho đất được thông khí, hạn chế cỏ dại và tạo điều kiện cho cây sinh
trưởng tốt hơn. Lần đầu được tiến hành ngay khi cây lúa hồi xanh, ra lá, rễ mới
kết hợp với bón phân sớm thúc đẻ.
Nguyên tắc thứ tư tưới và
rút nước xen kẽ: Việc
tưới và rút nước xen kẽ 3 - 4 lần trong vụ nhưng vẫn đảm bảo đất đủ ẩm sẽ kích
thích rễ lúa ăn sâu, lan rộng, tạo cho cây có một bộ rễ khỏe, tăng khả năng hút
nước và dinh dưỡng, chống đổ tốt. Để điều tiết nước trong ruộng thuận lợi nên
chia ruộng thành các luống rộng khoảng 1,5 - 2m, tạo rãnh thoát nước rộng 25cm,
sâu 10 - 20cm ở xung quanh ruộng và giữa các luống. Việc tạo rãnh này cũng giúp
bà con dễ dàng chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh cho lúa.
Nguyên tắc thứ năm
là tăng cường sử dụng phân hữu cơ: Sử dụng phân hữu cơ hoai mục có tác dụng cải tạo và
tăng độ phì cho đất rất tốt; làm cho đất không chỉ đơn thuần là giá thể cho cây
bám vào mà còn là một thể sống với vô số vi sinh vật hoạt động góp phần nâng
cao hiệu quả sử dụng phân bón, tăng cường khả năng hút dinh dưỡng và nâng cao
khả năng chống chịu của cây lúa.
Các kết quả thực nghiệm cho thấy rằng, nếu nơi nào áp
dụng được đầy đủ các nguyên tắc SRI sẽ mang lại hiệu quả đáng kể: Giảm 40 - 50%
lượng giống so với tập quán (SRI sử dụng 0,6 - 0,7 kg thóc/sào), giảm trung
bình 2 lần phun thuốc BVTV/vụ, nước tưới giảm 2 lần/vụ, năng suất tăng 7 - 15%
tương đương 15 - 30 kg/sào, hiệu quả sản xuất lúa tăng 5 - 10 triệu đồng/ha.
Tuy nhiên, việc áp dụng đầy đủ 5 nguyên tắc SRI hiện nay còn rất thấp, mới chiếm
khoảng 3 - 4% diện tích áp dụng SRI. Đa số nông dân mới chỉ áp dụng được 1 - 2
nguyên tắc (cấy mạ non 2 - 2,5 lá, cấy thưa 30 - 40 khóm/m2); các
nguyên tắc còn lại (làm cỏ sục bùn, điều tiết nước, tăng cường sử dụng phân hữu
cơ) chưa được áp dụng nhiều.
Để dần từng bước nâng cao chất lượng áp dụng đầy đủ
nguyên tắc SRI, cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tập huấn, chuyển
giao theo phương pháp cầm tay chỉ việc cho người nông dân. Làm các mô hình
trình diễn, bố trí các thí nghiệm so sánh,.. để người dân thăm quan học tập. Về
lâu dài, để tăng năng suất lúa, hiệu quả kinh tế, giảm chi phí sản xuất và
hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu
đòi hỏi phải có chiến lược tổng thể; Cần đầu tư, xây dựng và cải tạo hệ thống
kênh mương tưới tiêu, giao thông nội đồng, từng bước dồn đổi ruộng đất thành
các ô thửa lớn; Xây dựng mô hình cánh đồng lớn theo hình thức liên kết, gắn với
tiêu thụ. Áp dụng gieo cùng một giống để thuận lợi cho áp dụng SRI và cơ giới
hóa trong sản xuất.
Ths. Trần Thái Ninh (Chi cục BVTV)