Nhảy đến nội dung

Kỹ thuật phòng trừ một số đối tượng sâu bệnh gây hại trên lúa mùa

Nghe bài viết Play Pause

Hiện nay, các trà lúa mùa đang trong giai đoạn đẻ
nhánh đến đứng cái, làm đòng, cây lúa sinh trưởng, phát triển khá tốt

Một số đối tượng sâu bệnh hại phát sinh, tích lũy mật
độ, tăng nhanh khả năng lây nhiễm, tiềm ẩn nguy cơ gây hại nặng. Để chủ động
phòng trừ, hạn chế thấp nhất thiệt hại do sâu bệnh gây ra, chúng tôi xin giới
thiệu cách nhận biết và kỹ thuật phòng trừ một số đối tượng sâu bệnh gây hại chính
trên lúa mùa:

* Sâu cuốn lá
nhỏ:
Sâu
non tuổi 1 chưa cuốn tổ mà nằm trong các bao tổ cũ, sang tuổi 2 chúng mới bắt
đầu cuốn 2 mép lá với nhau tạo thành tổ và ăn phần thịt lá bên trong, để lại
lớp biểu bì bên ngoài gây hiện tượng trắng lá, làm giảm khả năng quang hợp, gây
lép lửng, giảm năng suất. Để phòng trừ sâu cuốn lá có hiệu quả, bà con nông dân
cần thường xuyên thăm đồng, chỉ phun phòng trừ khi ruộng có mật độ sâu non từ
20 con/m2 trở lên (bình quân trên 2 khóm có 1 con) khi lúa ở giai
đoạn đứng cái, làm đòng đến trỗ bông và từ 50 con/m2 trở lên khi lúa
ở giai đoạn đẻ nhánh; Sử dụng một trong các loại thuốc: Victory 585EC, Dylan 10
WG, Calitoc 75 EC, Reasgant 3.6EC, ... pha và phun theo hướng dẫn trên bao bì. Ruộng
có mật độ sâu cao trên 200 con/m2 phải phun kép 2 lần cách nhau 3 -
5 ngày.

* Sâu đục thân: Sâu non mới nở nhả tơ di
chuyển ra các khóm lúa xung quanh và đục vào bên trong, cắn đứt đỉnh sinh
trưởng của cây lúa gây hiện tượng dảnh héo hoặc bông bạc, ảnh hưởng lớn đến
năng suất. Cần kiểm tra đồng ruộng và phun phòng trừ khi trên ruộng có mật độ ổ
trứng từ 0,3 ổ/m2 trở lên; sử dụng một trong các loại thuốc Victory
585EC, Nicata 95SP, Calitoc 75 EC, Wavotox 585EC, ... pha và phun theo hướng
dẫn trên bao bì. Ruộng có mật độ ổ trứng cao trên 1 ổ/m2 phải phun
kép 2 lần cách nhau 5 - 7 ngày.

* Bệnh bạc
lá, đốm sọc vi khuẩn:
Bệnh bạc lá có vết đầu tiên thường xuất hiện ở 2 bên mép lá sau đó lan dần vào trong, làm
phiến lá bị bạc trắng, rìa vết bệnh có hình lượn sóng. Bệnh đốm sọc, ban đầu
vết bệnh là những sọc nhỏ, màu nâu đỏ, chạy dọc gân lá, sau lan dần làm khô
toàn bộ lá. Trên vết bệnh thường xuất hiện các giọt dịch vi khuẩn màu trắng
đục, khi khô đi có màu vàng hoặc nâu. Bệnh do vi khuẩn gây ra, chúng xâm nhiễm
vào cây thông qua khí khổng lá, nhất là vết thương cơ giới. Bệnh gây hại mạnh ở
giai đoạn lúa làm đòng - chắc xanh, gây hại nặng trên các giống lúa lai, lúa có
bản lá to, ruộng xanh tốt, rậm rạp. Để phòng trừ bệnh bạc lá, đốm sọc vi khuẩn
có hiệu quả, cần thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, đặc biệt sau các trận mưa
bão;
Khi phát hiện
ruộng chớm bị bệnh không bón thêm phân hay phun phân bón lá hoặc thuốc kích
thích sinh trưởng; Phun phòng trừ ngay bằng các loại thuốc đặc hiệu:
Starwiner
20WP, Xanthomix 20WP, Kamsu 2SL, ...  pha
và phun kỹ theo hướng dẫn trên vỏ bao bì. R
uộng bị nặng phải phun kép 2 lần
cách nhau 5 - 7 ngày.

* Rầy các
loại:
Đặc điểm của rầy
nâu, rầy lưng trắng, rầy xám sống tập trung ở gốc lúa sát mặt nước, chích hút
nhựa của cây lúa làm cho cây phát triển kém, còi cọc, gây lửng lép cao, giảm
năng suất rất lớn. Khi mật độ rầy cao, có thể gây cháy khô toàn bộ cây lúa, gây
mất trắng. Cần chú ý r
ầy xám thường gây hại nặng ở giai đoạn lúa đứng cái, làm đòng đến trỗ bông
trên chân ruộng dộc chua; rầy nâu, rầy lưng trắng gây hại nặng giai đoạn lúa
trỗ bông, phơi màu đến đỏ đuôi. Để phòng trừ rầy hiệu quả, cần kiểm tra đồng ruộng, và
chỉ phun trên những ruộng có mật độ rầy từ 30 con/khóm (tương đương 1.500 con/m2)
trở lên. Nên phun khi rầy còn non (tuổi 1, 2) và chọn các thuốc đặc hiệu để đạt
hiệu quả phòng trừ cao. Giai đoạn lúa còn non đến chín sữa, sử dụng các loại
thuốc nội hấp, lưu dẫn, phun không cần rẽ băng như:
Victory 585
EC,
Sieuray
250
WP,... Sau giai đoạn chín sữa, phải sử dụng các loại
thuốc tiếp xúc và rẽ băng rộng từ 0,8 - 1m, phun kỹ vào gốc lúa như:
Babsac
600 EC,

Nibas 50ND,... pha và phun theo hướng dẫn ghi trên vỏ bao bì. Khi mật độ rầy
cao, có thể hỗn hợp thuốc nội hấp, lưu dẫn với thuốc tiếp xúc để tăng hiệu quả
diệt trừ.

* Bệnh khô
vằn:
Vết bệnh ban đầu thường
phát sinh từ các bẹ sau đó lan rộng ra dảnh, phiến lá và bông. Vết bệnh trên
dảnh, trên lá có hình thù vằn vèo như da hổ. Khi bị nặng làm khô dảnh và lá làm
giảm diện tích quang hợp, gây ra hiện tượng hạt lúa bị lửng lép, giảm năng
suất. Bệnh thường hại nặng trên ruộng cấy dày, lá xanh tốt rậm rạp, bón đạm
muộn. Thời tiết nắng mưa xen kẽ là điều kiện thích hợp cho bệnh lây lan, phát
triển nhanh. Khi ruộng đã bị bệnh cần duy trì đủ nước trên ruộng, không bón bổ
sung thêm phân hoá học, phân bón lá hay phun thuốc kích thích sinh trưởng. Với
những ruộng có tỷ lệ dảnh bị nhiễm bệnh từ 20% trở lên, đặc biệt là khi vết
bệnh lây lan lên 3 lá trên cùng (bộ 3 lá đòng) thì phải tiến hành phun phòng
trừ. Sử dụng một trong các loại thuốc Cavil 50SC, Lervil 5 SC, Jinggang meisu
10WP, Kansui 21.2 WP... pha và
phun theo hướng dẫn ghi trên bao bì.

Ngoài ra, cần thường xuyên theo dõi và phòng trừ kịp thời các đối tượng
chuột, nhện gié, bọ xít dài, bệnh lem lép hạt,… theo khuyến cáo của cơ quan
chuyên môn.


                                                                     
Ths. Trần Thái Ninh - Chi cục BVTV