Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thủy sản đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, thu nhập của người dân khu vực nông thôn, góp phần tích cực trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
Đầu tư ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thủy sản là một xu hướng tất yếu để đảm bảo phát triển bền vững. Thực tiễn sản xuất thủy sản của tỉnh giai đoạn 2011 đến nay nhờ có sự quan tâm chỉ đạo, tạo điều kiện thuận lợi của Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất; sự quan tâm hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn; sự mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào các khâu sản xuất của các tổ chức, cá nhân đã thúc đẩy sản xuất thủy sản của tỉnh luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá (giai đoạn 2011-2021 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,8%/năm), sản xuất thủy sản của tỉnh phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung quy mô lớn (tổng sản lượng thủy sản của tỉnh đến năm 2021 đạt 42,1 ngàn tấn, tăng 22,06 ngàn tấn, gấp 2,1 lần so với năm 2010, đứng thứ 2 trong 14 tỉnh trung du miền núi phía Bắc). Ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất thủy sản đã nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế, thu nhập của người dân khu vực nông thôn, góp phần tích cực trong xây dựng nông thôn mới trên địa bàn.
Từ năm 2011 đến nay, được sự quan tâm bố trí nguồn kinh phí sự nghiệp nghiên cứu khoa học của Trung ương và địa phương, các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh đã triển khai 15 đề tài, dự án khoa học nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ ở khâu sản xuất giống và nuôi thương phẩm (Trong đó: 3 đề tài, dự án khoa học cấp nhà nước; 9 đề tài, dự án khoa học cấp tỉnh, 3 đề tài cấp cơ sở). Kết quả các đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã có sức sống được người dân đón nhận áp dụng và lan tỏa sâu rộng trong thực tiễn sản xuất.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ đã bổ sung cơ cấu giống nuôi và góp phần chủ động sản xuất, cung ứng nhiều đối tượng thủy sản có giá trị kinh tế cao phục vụ sản xuất trên địa bàn như: cá Bỗng, cá Lăng chấm, cá Nheo Mỹ, cá Tầm, cá Trê đồng, cá Chuối hoa, cá Chạch sông, cá Chạch đồng, ốc Nhồi,….Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 4 cơ sở sản xuất giống, 10 khu ương nuôi giống tập trung,2 làng nghề với quy mô 208 ha với trên 1.000 hộ dân tham gia, hàng năm sản xuất và cung ứng cho người nuôi trong và ngoài tỉnh trên 1,6 tỷ con giống các loại (Riêng làng nghề cá chép đỏ Thủy Trầm xã Tuy Lộc huyện Cẩm Khê và làng nghề sản xuất và ương nuôi cá giống Thủy Trạm xã Sơn Thủy huyện Thanh Thủy hàng năm sản xuất và cung ứng 0,6 tỷ con giống các loại, chiếm gần 40% sản lượng cá giống của tỉnh). Cơ cấu giống sản xuất, ương nuôi của tỉnh chuyển biến mạnh từ chủ yếu đối tượng nuôi là các đối tượng truyền thống thì đến năm 2021 cơ cấu giống đặc sản, bản địa có giá trị kinh tế cao chiếm tới 52%, góp phần chủ động cung ứng theo nhu cầu của người nuôi trên địa bàn và một số tỉnh lân cận. Thương hiệu cá chép đỏ Thủy Trầm đã đi vào nhận thức tâm linh của người dân miền Bắc; một số cơ sở đã ương nuôi giống cá chép Coi Nhật Bản và từng bước khẳng định thương hiệu, mở rộng quy mô trên thị trường cá cảnh; Hợp tác xã thủy sản Vô Tranh, huyện Hạ Hòa đã ứng dụng thành công công nghệ ương nuôi giống cá Tầm sẽ góp phần chủ động cung ứng nhu cầu phát triển cá nước lạnh trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ nuôi thương phẩm trên địa bàn tỉnh đã góp phần giảm chi phí sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả đầu tư của người dân, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa thủy sản tập trung, quy mô lớn. Cụ thể theo đánh giá một số mô hình cho thấy: Khi áp dụng công nghệ thâm canh thủy sản bằng thức ăn công nghiệp, sử dụng chế phẩm sinh học trong quản lý môi trường ao nuôi, phòng trị dịch bệnh sẽ góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí đầu vào (nhân công, thức ăn, con giống), nâng cao năng suất. Nhiều mô hình ứng dụng công nghệ cao được áp dụng rộng rãi trên địa bàn tỉnh đã góp phần khai thác có hiệu quả tiềm năng mặt nước. Mô hình ứng dụng công nghệ nuôi thâm canh cá lồng trên sông, hồ chứa có bước phát triển mạnh mẽ phát huy có hiệu quả tiềm năng mặt nước sông và hồ chứa trên địa bàn tỉnh (tính đến năm 2021, toàn tỉnh phát triển 1.853 lồng nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi mới, sản lượng cá lồng đạt 5,13 ngàn tấn, chiếm 12,19% tổng sản lượng thủy sản của tỉnh). Một số mô hình ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến trên Thế giới hiện nay được đánh giá là thân thiện với môi trường và cho hiệu quả kinh tế cao cũng đã được một số hợp tác xã, chủ trang trại có tiềm lực kinh tế mạnh dạn đầu tư áp dụng, mở ra xu hướng phát triển mới trong thời gian tới như mô hình nuôi tuần hoàn, nuôi ao nước chảy, nuôi sông trong ao, nuôi áp dụng kỹ thuật Biofloc được ứng dụng khá rộng rãi. Đặc biệt, công nghệ Biofloc (sử dụng sản phẩm công nghệ sinh học trong quản lý môi trường ao nuôi, phòng trị dịch bệnh) được ứng dụng rộng rãi ở các huyện Cẩm Khê, Hạ Hòa để nuôi tôm càng xanh mang lại hiệu quả kinh tế cao và phòng chống được một số bệnh trên tôm nuôi, giảm ô nhiễm môi trường (giai đoạn 2010-2015 năng suất nuôi tôm càng xanh đạt từ 0,4-0,8 tấn/ha việc áp dụng công nghệ Biofloc trong nuôi tôm càng xanh trên địa bàn xã Văn Khúc huyện Cẩm Khê hiện nay năng suất trung bình đạt từ 1,5-2 tấn/ha). Hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS) đã được áp dụng tại một số huyện Thanh Thủy, Tam Nông, Lâm Thao, Hạ Hòa áp dụng trong ương nuôi cá giống và nuôi thương phẩm,hiện nay trên địa bàn tỉnh đã có 13 bể nuôi theo công nghệ Sông trong ao (quy mô 250m3/bể với năng suất 12-15 tấn/bể tương đương với 3 ha nuôi trong ao). Hệ thống nuôi bể nước chảy tận dụng nguồn nước suối để nuôi cá Tầm đã được áp dụng tại Hạ Hòa, Yên Lập, Thanh Sơn với quy mô 12 bể (6 bể 14m3, 12 bể 50 m3, 2 bể 80 m3).
Ứng dụng khoa học công nghệ trong sơ chế, chế biến sản phẩm thủy sản bước đầu phát triển trên địa bàn tỉnh ở quy mô nhỏ góp phần tích cực giảm tổn thất sau thu hoạch, cho hiệu quả kinh tế cao góp phần đa dạng sản phẩm thủy sản. Một số sản phẩm từ sơ chế, chế biến truyền thống mang lại hiệu quả kinh tế cao như sản phẩm cá Thính Tử Đà; sản phẩm sơ chế cá chạch của HTX dịch vụ nuôi trồng thủy sản Yên Lập; sản phẩm chả cá Lăng sông Lô,…Trong đó sản phẩm cá thính Tử Đà đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp nhãn hiệu tập thể Cá thính Tử Đà đã góp phần nâng cao thu nhập cho một bộ phận người dân địa phương.
Đóng góp vào những kết quả quan trọng trên còn nhờ có sự tham gia hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ trong sản xuất thủy sản của các tổ chức, doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh như: Trường Đại học Hùng Vương, Công ty TNHH một thành viên tư vấn dịch vụ nông nghiệp công nghệ cao; Công ty TNHH thủy sản công nghê cao,Công ty TNHH Quảng Đạt Phú Thọ, Công ty Cổ phần cá giống Sông Thao,… đồng hành là sự tham gia tuyên truyền, nhân rộng các kết quả đạt được trong hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ của Đài Phát thanh - Truyền hình, Báo Phú Thọ đã tạo động lực và kết nối mạng lưới nghiên cứu, đổi mới sáng tạo trong phát triển, sản xuất thủy sản của tỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao, nhân rộng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới trong lĩnh vực thủy sản còn nhiều khó khăn, hạn chế: Sản phẩm khoa học công nghệ được thương mại hóa còn ít; quy mô áp dụng một số sản phẩm ứng dụng công nghệ cao chiếm tỷ lệ thấp trong tổng sản lượng hàng hóa của tỉnh; nguồn vốn vay còn hạn chế, trong khi nhu cầu về vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật để áp dụng công nghệ cao là rất lớn; đầu tư sản xuất nông nghiệp nói chung, thủy sản nói riêng còn nhiều rủi ro nên chưa khuyến khích được nhiều tổ chức, doanh nghiệp đầu tư; hạ tầng thủy lợi phục vụ nuôi thủy sản của tỉnh đã được quan tâm xây dựng các công trình đầu mối lớn, song chưa được đầu tư các công trình phụ trợ, kết nối phục vụ cấp và tiêu nên chưa thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân đầu tư mở rộng quy mô; nhận thức, trình độ của người dân không đồng đều giữa các vùng trong tỉnh làm hạn chế nhân rộng các mô hình hiệu quả.
Để đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ trong sản xuất thủy sản của tỉnh hiện nay rất cần sự tiếp tục quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi trong chỉ đạo, quản lý, bố trí nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, nguồn vốn sự nghiệp khoa học của các ngành, các cấp trong thời gian tới.