Nhảy đến nội dung

HÌNH THÀNH CÁC CHUỖI GIÁ TRỊ, PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG SINH THÁI TẠI TỈNH PHÚ THỌ

Nghe bài viết Play Pause

Phú Thọ là vùng đất cổ, nơi phát tích của dân tộc Việt Nam, với bề dày lịch sử và các sản vật thiên nhiên độc đáo. Sau hợp nhất, tỉnh Phú Thọ có diện tích tự nhiên 9.361,38 km² và dân số trên 4,0 triệu người. Việc hợp nhất ba tỉnh Phú Thọ, Vĩnh Phúc và Hòa Bình là một sự kiện mang tính chiến lược, tạo ra tỉnh Phú Thọ mới với không gian và quy mô lớn cho phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là ngành nông nghiệp. Sự đa dạng về tự nhiên, đất đai và khí hậu trải dài từ đồng bằng đến miền núi cao là điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng gắn với tăng trưởng xanh. Đặc biệt, diện tích đất nông nghiệp đạt 770,6 nghìn ha, chiếm gần 82,3% tổng diện tích tự nhiên, cung cấp dư địa lớn cho phát triển nông nghiệp xanh. 

Nông nghiệp Sinh thái (NNST) và Nông nghiệp Tuần hoàn (NNTH) đại diện cho sự chuyển đổi tư duy từ kinh tế tuyến tính sang mô hình "sản xuất - sử dụng - tái chế - tái sử dụng". Mô hình này không chỉ tối ưu hóa việc sử dụng tài nguyên và giảm chi phí đầu vào, mà còn hướng tới tích hợp đa giá trị. Sản phẩm nông nghiệp có thể tích hợp thêm giá trị dịch vụ sinh thái (tín chỉ carbon, quản lý rừng bền vững) và dịch vụ trải nghiệm (du lịch nông nghiệp nông thôn). Trước yêu cầu cấp thiết phải đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng hiệu quả, bền vững và tích hợp đa giá trị theo tinh thần Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị, việc chuyển đổi sang Nông nghiệp Sinh thái và hình thành các chuỗi giá trị là nhiệm vụ kép vừa cấp bách vừa chiến lược của tỉnh

Sau khi hợp nhất tỉnh Phú Thọ mới  tổng diện tích cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm là 52,6 nghìn ha. Sản phẩm nổi bật bao gồm: diện tích cây chè 14,5 nghìn ha, diện tích cây bưởi 11,9 nghìn hadiện tích cây cam 3,7 nghìn ha. Lĩnh vưc Chăn nuôi với tổng đàn vật nuôi gần 40 triệu con, trong đó đàn lợn khoảng 1,86 triệu con, đàn gia cầm 36,88 triệu con. Quy mô chăn nuôi tập trung chiếm tỷ trọng đáng kể44% tổng đàn lợn là quy mô tập trung. Lĩnh vực Lâm nghiệp và Sinh thái với tổng diện tích rừng khoảng 450 nghìn ha, tỷ lệ che phủ rừng 43,6%. Tỉnh có 04 Vườn Quốc gia và 04 Khu bảo tồn thiên nhiên, diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đã đạt 74,7 nghìn ha, cùng với 26,8 nghìn ha rừng gỗ lớn, mở ra tiềm năng, cơ hội tham gia thị trường tín chỉ carbon. 

Mặc dù có nhiều tiềm năng, nhưng nông nghiệp sinh thái và chuỗi giá trị tại Phú Thọ hiện nay đang phải đối mặt với nhiều thách thức như sau:

Việc hợp nhất 3 tỉnh là một bước đột phá về tổ chức, nhưng đã gây ra sự xáo trộn và khó khăn trong vận hành bộ máy về thể chế và quản lý nhà nước. Việc rà soát, đồng bộ hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật từ ba tỉnh cũ là nhiệm vụ trọng tâm nhưng nhiều áp lực, trong khi đó cần xử lý khoảng 204 văn bản quy phạm pháp luật để thống nhất áp dụng chung trên địa bàn toàn tỉnh trước 01/01/2026. Hơn nữa, việc triển khai mô hình chính quyền địa phương 2 cấp đã làm giảm đáng kể lực lượng cán bộ chuyên môn tại cơ sở. Chỉ có 23,06% cán bộ cấp xã có chuyên môn về lĩnh vực nông nghiệp. Năng lực hạn chế này, cùng với địa bàn quản lý rộng sau sáp nhập đã tạo ra khó khăn nhất định trong việc triển khai các chính sách trong nông nghiệp và môi trường chuyên sâu, việc giải quyết các thủ tục hành chính phức tạp về đất đai và đầu tư ở cấp xã.

Sản xuất nông nghiệp vẫn còn manh mún, quy mô nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ lớn. Mối liên kết giữa nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp chưa chặt chẽ và thiếu bền vững, gây khó khăn trong việc xây dựng các chuỗi giá trị hoàn chỉnh và mở rộng thị trường. Công nghệ chế biến sâu còn hạn chế, khiến nhiều sản phẩm chủ yếu được tiêu thụ dưới dạng thô, làm giảm giá trị gia tăng; rủi ro về dịch bệnh và thiên tai đã tác động lớn, nhất là dịch tả lợn Châu Phi đã bùng phát trên diện rộng, tính đến hết tháng 9/2025 bệnh Dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra ở 122 xã, phường, đã tiêu hủy trên 113.000 con với trên 6.565 tấn lợn bị tiêu hủy. Cùng với đó việc xuất khẩu nông sản cũng đang phải đối mặt với nhiều rào cản kỹ thuật và tiêu chuẩn chất lượng cao của thị trường quốc tế.

Quy mô chăn nuôi lớn của tỉnh kéo theo áp lực môi trường khổng lồ. Ước tính có khoảng 25-30% chất thải, nước thải chăn nuôi chưa được xử lý triệt để và thải ra môi trường. Việc lãng phí các phụ phẩm nông nghiệp như rơm rạ, chất thải,… cũng làm giảm tiềm năng của Nông nghiệp tuần hoàn. Công tác quản lý môi trường đô thị và nông thôn gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là tiến độ xây dựng nhà máy xử lý rác thải tập trung chậm, gây khó khăn trong việc thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Việc chuyển đổi sang Nông nghiệp tuần hoàn đòi hỏi nguồn vốn đầu tư ban đầu lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm máy móc và áp dụng công nghệ mới, điều này vượt quá khả năng của nhiều hộ nông dân và doanh nghiệp nhỏ.

Hiện nay, rừng đầu nguồn bị khai thác, thảm phủ mới chưa đảm bảo độ dầy đã làm cho nguồn sinh thủy của các hồ, đập thủy lợi ngày một giảm, đồng thời cũng làm cho hiện tượng xói mòn, rửa trôi trên các sườn dốc ngày một tăng, lượng bồi lấp hàng năm của các công trình thủy lợi ngày một lớn, nhiều cửa lấy nước của các trạm bơm ven sông bị bồi lấp, thường xuyên phải nạo vét, gây tốn kém chi phí sản xuất. Mặt khác, do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, lượng nước trên các sông lớn chảy qua địa bàn tỉnh Phú Thọ sụt giảm nghiêm trọng (đặc biệt trên sông Lô và sông Chảy), lượng nước trong các hồ, đầm cũng bị thiếu hụt rất lớn vào mùa khô dẫn đến thiếu chủ động trong cung cấp nước phục vụ sản xuất, hầu hết các trạm bơm ven sông đều bị treo giỏ, phải lắp đặt các máy bơm có có công suất phù hơp, bổ sung kéo dài ống hút hoặc tăng cường thêm máy bơm dã chiến. Bên cạnh đó, lượng mưa trung bình năm giảm nhưng cường độ mưa cục bộ từng trận lớn tăng, đây là nguyên nhân gây ra ngập úng cục bộ ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp, lũ trên các sông suối, với địa hình chia cắt, nhiều đồi núi, độ dốc lớn đã gây ra lũ quét, sạt lở đất tại địa bàn các  miền núi trước đây là các huyện cũ của tỉnh Phú Thọ trước sát nhập như Thanh Sơn, Tân Sơn, Yên Lập, Cẩm Khê, Hạ Hoà. Ngoài ra, những năm gần đây với sự tham gia điều tiết của các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà và nhiều công trình thủy điện nhỏ nên lưu lượng, chế độ dòng chảy trên các sông thay đổi, đặc biệt vào mùa lũ, làm cho hiện tượng sạt lở bờ vở sông trên địa bàn tỉnh diễn ra mạnh.

Để tận dụng tối đa lợi thế của tỉnh sau hợp nhất và khắc phục các thách thức, cần triển khai đồng bộ các giải pháp chiến lược theo ba trụ cột chính là Đột phá thể chế, Xây dựng nền tảng Nông nghiệp tuần hoàn và Phát triển chuỗi giá trị tích hợp đa ngành. Cụ thể:

Để đột phá về thể chế và nâng cao năng lực quản trị liên vùng cần hoàn thành đồng bộ hóa quy phạm pháp luật ưu tiên nguồn lực xử lý hệ thống văn bản quy phạm pháp luật không đồng nhất, đảm bảo các chính sách hỗ trợ nông nghiệp sinh thái được ban hành và thống nhất áp dụng trên toàn tỉnh ngay từ 01/01/2026; Nâng cao năng lực cán bộ, thực hiện chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng số, chuyên môn nghiệp vụ nông nghiệp sinh thái (VietGAP, hữu cơ, an toàn sinh học) cho đội ngũ cán bộ cấp xã để đảm bảo chỉ đạo sản xuất và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật không bị ngắt quãng; Xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù (theo Nghị quyết 68-NQ/TW) để khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là các doanh nghiệp chế biến sâu và logistics nông sản, tham gia vào chuỗi, đơn giản hóa thủ tục tiếp cận vốn và đất đai.

Phát triển nền tảng nông nghiệp tuần hoàn và kinh tế Carbon vì đây là giải pháp tất yếu để giải quyết áp lực môi trường từ quy mô sản xuất lớn và gia tăng giá trị kinh tếĐầu tư đồng bộ hệ thống xử lý chất thải chăn nuôi (biogas, ủ phân hữu cơ) để đạt mục tiêu 100% trang trại quy mô lớn và 70% trang trại quy mô nhỏ và vừa áp dụng công nghệ tái sử dụng đến năm 2030. Mở rộng ứng dụng chế phẩm vi sinh để xử lý rơm rạ, chuyển sinh khối nông nghiệp thành phân bón hữu cơ; thí điểm các dự án lâm nghiệp và mô hình nông nghiệp sinh thái (canh tác lúa giảm phát thải) trên 74,7 nghìn ha rừng được cấp chứng chỉ quản lý bền vững. Xây dựng giải pháp kỹ thuật đo đếm và đánh giá khí nhà kính để tạo ra nguồn thu nhập mới, ổn định. Phát triển nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn, ứng dụng công nghệ cao; nâng cao hiệu quả quản lý đất đai, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; rà soát, quy hoạch lại việc khai thác khoáng sản, kiên quyết xử lý các hoạt động khai thác trái phép, gây ô nhiễm; tăng cường đầu tư xử lý chất thải, nước thải, phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, bảo đảm hài hòa giữa phát triển và bảo vệ môi trường.

Hình thành chuỗi giá trị chủ lực gắn với xuất khẩu bao gồm: Chuẩn hóa chất lượng và mở rộng vùng trồng việc thực hiện tái canh cây cam, bưởi bằng giống sạch bệnh, hoàn thiện quy trình thâm canh chuẩn hóa (VietGAP, GlobalGAP) để khắc phục rào cản kỹ thuật của thị trường xuất khẩu (Mỹ, EU). Đẩy mạnh chế biến sâu chè (Ô long, Matcha) để tăng tỷ lệ sản phẩm có giá trị ca; Phát triển HTX kiểu mới và liên kết tiêu thụ bền vững trong đó tập trung hỗ trợ 1.142 HTX phát triển thành HTX kiểu mới, đóng vai trò đầu mối liên kết sản xuất với các doanh nghiệp lớn (Vinamilk, Dabaco) và kênh tiêu thụ hiện đại (siêu thị, sàn thương mại điện tử). Nhân rộng các mô hình thành công để đạt mục tiêu 40% sản phẩm OCOP chủ lực có liên kết tiêu thụ với các kênh hiện đại đến năm 2030.

Tích hợp đa giá trị sản phẩm OCOP, du lịch nông nghiệp và chuyển đổi số như: Xây dựng hành lang xanh du lịch nông thôn liên kết các vùng sản xuất đặc sắc (chè Long Cốc, bưởi Đoan Hùng) thành các tuyến du lịch trải nghiệm gắn kết sản phẩm OCOP với văn hóa bản địa (văn hóa Mường, hát Xoan). Phát triển du lịch chăm sóc sức khỏe khai thác tiềm năng suối khoáng nóng (Kim Bôi, Thanh Thủy) để thu hút phân khúc trung và cao cấp.

Ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số như xây dựng Hệ thống dữ liệu nông nghiệp sinh thái tổng hợp và Bản đồ nông sản số với hệ thống truy xuất nguồn gốc điện tử (QRCode) cho tất cả các sản phẩm chủ lực và và sản phẩm OCOP. Ứng dụng công nghệ thông minh (IoT, AItrong sản xuất và đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao (phấn đấu kinh tế số đạt 30% GRDP đến năm 2030). 

Việc hình thành các chuỗi giá trịhỗ trợ phát triển nông nghiệp sinh thái là chiến lược phát triển tất yếu, phù hợp với bối cảnh hợp nhất quy mô lớn và định hướng tăng trưởng xanh của tỉnh Phú Thọ, cần được triển khai thực hiện và tích hợp dựa trên ba đột phá chính: Đột phá thể chế, đột phá công nghệ sinh thái (Nông nghiệp tuần hoàn và Kinh tế Carbon) và đột phá thị trường (Chuỗi giá trị OCOP tích hợp Du lịch Sinh thái)Với tiềm năng về tài nguyên, sự quyết tâm đột phá thể chế, tỉnh Phú Thọ có đầy đủ căn cứ để tin tưởng vào sự thành công của chiến lược này, góp phần kiến tạo một nền kinh tế nông nghiệp hiệu quả, đa giá trị và bền vững cho vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ.

Nguyễn Văn Quân – Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường  

TIN ĐÃ ĐƯA