Giải pháp chủ yếu phát triển thủy sản giai đoạn 2021-2025 trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Giai đoạn 2016-2020, sản xuất thủy sản tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá: giá trị sản xuất tăng trưởng bình quân đạt 6,9%/năm; sản lượng tăng bình quân 6,5%/năm; tổng sản lượng thủy sản tính đến năm 2020 đạt 40,03 nghìn tấn (tăng 33,6% so năm 2015).
Giai đoạn 2016-2020, sản xuất thủy sản tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá: giá trị sản xuất tăng trưởng bình quân đạt 6,9%/năm; sản lượng tăng bình quân 6,5%/năm; tổng sản lượng thủy sản tính đến năm 2020 đạt 40,03 nghìn tấn (tăng 33,6% so năm 2015). Đạt được kết quả trên nhờ có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong tỉnh, sự nỗ lực vượt khó, đẩy mạnh đầu tư thâm canh của người dân. Cơ cấu diện tích chuyên nuôi chuyển dịch tích cực theo hướng tăng diện tích nuôi thâm canh, giảm diện tích nuôi bán thâm canh (năm 2020 diện tích thâm canh đạt 2.026 ha, tăng 476 ha so với năm 2015); tổng số lồng nuôi thâm canh đạt 1.832 lồng (tăng 870 lồng so với năm 2015); tỷ lệ giống đặc sản, giống có giá trị kinh tế cao đạt trên 50% (tăng 13% so với năm 2015). Sản xuất thủy sản của tỉnh phát triển đúng hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn (toàn tỉnh hiện có 44 khu nuôi thương phẩm, 10 khu ương nuôi giống tập trung, quy mô 1.352,43ha; 1.832 lồng nuôi thâm canh trên sông và hồ chứa; tổng sản lượng hàng hóa tập trung ước đạt 14.350 tấn, chiếm 34,45% sản lượng thủy sản nuôi của tỉnh). Thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất thủy sản chuyển dịch tích cực theo hướng tăng quy mô sản xuất loại hình trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp đã góp phần tích cực thúc đẩy ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hệ thống dịch vụ phục vụ nuôi thủy sản phát triển rộng rãi; đến năm 2020 toàn tỉnh có 205 trang trại, 12 hợp tác xã, 08 doanh nghiệp tham gia phát triển sản xuất thuỷ sản tăng (tăng 105 trang trại, 04 hợp tác xã, 04 doanh nghiệp so với 2015).
Tuy nhiên, phát triển sản xuất thủy sản của tỉnh trong thời gian qua bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, thiếu bền vững như: liên kết tổ chức sản xuất trong lĩnh vực thủy sản chủ yếu phát triển ở liên kết ngang, liên kết dọc theo chuỗi giá trị còn hạn chế, nhất là ở khâu tiêu thụ sản phẩm; sản xuất thủy sản chủ yếu phát triển về quy mô sản lượng, chất lượng sản phẩm còn thấp, chưa có nhiều nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu sản phẩm nên khả năng cạnh tranh thấp; hệ thống dịch vụ sơ chế, tiêu thụ sản phẩm còn rất hạn chế nên hàng hóa chủ yếu cung ứng ra thị trường ở dạng tươi sống, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao; hạ tầng kỹ thuật còn yếu và thiếu đồng bộ, nhiều khu nuôi tập trung chưa được kết nối với công trình thủy lợi làm hạn chế áp dụng các biện pháp thâm canh cao,…
Để sản xuất thủy sản đạt được mục tiêu kế hoạch đến năm 2025, tổng sản lượng thủy sản của tỉnh đạt 45,0 ngàn tấn, giá trị tăng thêm lĩnh vực thủy sản tăng trưởng bình quân 3,7%/năm, phát triển sản xuất thủy sản của tỉnh rất cần sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương để tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, tập trung chỉ đạo giải quyết, khắc phục những khó khăn trong thực tiễn phát triển sản xuất trên địa bàn tỉnh như: giải quyết những bất cập trong thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận đăng ký bè cá đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư nuôi cá lồng trên sông; quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng thủy lợi để chủ động cấp nước cho các khu ương giống và khu nuôi tập trung, tạo điều kiện thuận lợi để người dân đẩy mạnh áp dụng công nghệ thâm canh cho năng suất, chất lượng cao; thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách của trung ương, của tỉnh để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, hệ thống dịch vụ; triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Thủy sản và các văn bản quy định pháp luật lĩnh vực chuyên ngành.
Hai là, Tiếp tục chỉ đạo cơ cấu lại sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất theo hướng:
- Giảm quy mô số lồng nuôi trên sông, tăng quy mô lồng nuôi trong nuôi trong hồ chứa để khai thác có hiệu quả mặt nước hồ chứa, giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu, thiên tai đối với hoạt động nuôi cá lồng trên sông Đà (mục tiêu đến 2025: tổng số lồng nuôi 1895 lồng, trong đó số lồng nuôi trên sông giảm 395 lồng còn 1596 lồng; tăng 395 lồng nuôi trong hồ chứa thành 600 lồng nuôi);
- Ổn định diện tích mặt nước chuyên nuôi thủy sản 5.600 ha (diện tích nuôi thâm canh đạt 2.735 ha, tăng 709 ha)
- Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân mở rộng quy mô nuôi các đối tượng thủy sản đặc sản (như cá lăng, cá chiên, cá bỗng, cá trắm đen, cá tầm…); thủy sản bản địa có giá trị kinh tế cao, gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng mặt nước ao hồ nhỏ, ruộng 1 vụ (ốc nhồi, ếch, cua đồng, trạch đồng, trê đồng, trôi nhân, tép đồng,…); khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất như mô hình nuôi cá sông trong ao, mô hình nuôi ao nước chảy, mô hình nuôi tuần hoàn, mô hình nuôi cá nước lạnh, các mô hình sơ chế, chế biến sản phẩm (cá thính, cá khô, chả cá và các sản phẩm từ thủy sản) để góp phần khai thác tiềm năng nguồn nước từ các công trình thủy lợi lớn, nguồn nước lạnh để đa dạng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với các khu ương cá giống, khu nuôi tập trung, các cụm nuôi cá lồng theo hướng tổ chức sản xuất ở quy mô hợp tác xã, tổ hợp tác để giảm chi phí trung gian, nâng cao chất lượng sản phẩm, xấy dựng nhãn hiệu hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ để chủ động được đầu ra, tạo tiền đề dẫn dắt phát triển sản xuất.
Ba là, Tập trung thực hiện tốt giải pháp cấp mã số vùng nuôi thủy sản trên địa bàn tỉnh, coi đây là giải pháp trọng tâm trong giai đoạn 2021-2025 với phương châm: cấp mã số vùng nuôi gắn với hướng dẫn người dân chủ động nắm bắt, áp dụng các quy trình sản xuất an toàn, hạch toán kinh tế quy mô trang trại, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa để có đủ điều kiện tiếp cận thị trường trên không gian mạng, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin để quảng bá, tiêu thụ sản phẩm (zalo, facebook, youtobe).
Giai đoạn 2016-2020, sản xuất thủy sản tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá: giá trị sản xuất tăng trưởng bình quân đạt 6,9%/năm; sản lượng tăng bình quân 6,5%/năm; tổng sản lượng thủy sản tính đến năm 2020 đạt 40,03 nghìn tấn (tăng 33,6% so năm 2015). Đạt được kết quả trên nhờ có sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong tỉnh, sự nỗ lực vượt khó, đẩy mạnh đầu tư thâm canh của người dân. Cơ cấu diện tích chuyên nuôi chuyển dịch tích cực theo hướng tăng diện tích nuôi thâm canh, giảm diện tích nuôi bán thâm canh (năm 2020 diện tích thâm canh đạt 2.026 ha, tăng 476 ha so với năm 2015); tổng số lồng nuôi thâm canh đạt 1.832 lồng (tăng 870 lồng so với năm 2015); tỷ lệ giống đặc sản, giống có giá trị kinh tế cao đạt trên 50% (tăng 13% so với năm 2015). Sản xuất thủy sản của tỉnh phát triển đúng hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn (toàn tỉnh hiện có 44 khu nuôi thương phẩm, 10 khu ương nuôi giống tập trung, quy mô 1.352,43ha; 1.832 lồng nuôi thâm canh trên sông và hồ chứa; tổng sản lượng hàng hóa tập trung ước đạt 14.350 tấn, chiếm 34,45% sản lượng thủy sản nuôi của tỉnh). Thành phần kinh tế tham gia phát triển sản xuất thủy sản chuyển dịch tích cực theo hướng tăng quy mô sản xuất loại hình trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp đã góp phần tích cực thúc đẩy ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, hệ thống dịch vụ phục vụ nuôi thủy sản phát triển rộng rãi; đến năm 2020 toàn tỉnh có 205 trang trại, 12 hợp tác xã, 08 doanh nghiệp tham gia phát triển sản xuất thuỷ sản tăng (tăng 105 trang trại, 04 hợp tác xã, 04 doanh nghiệp so với 2015).
Tuy nhiên, phát triển sản xuất thủy sản của tỉnh trong thời gian qua bộc lộ nhiều khó khăn, hạn chế, thiếu bền vững như: liên kết tổ chức sản xuất trong lĩnh vực thủy sản chủ yếu phát triển ở liên kết ngang, liên kết dọc theo chuỗi giá trị còn hạn chế, nhất là ở khâu tiêu thụ sản phẩm; sản xuất thủy sản chủ yếu phát triển về quy mô sản lượng, chất lượng sản phẩm còn thấp, chưa có nhiều nhãn hiệu hàng hóa, thương hiệu sản phẩm nên khả năng cạnh tranh thấp; hệ thống dịch vụ sơ chế, tiêu thụ sản phẩm còn rất hạn chế nên hàng hóa chủ yếu cung ứng ra thị trường ở dạng tươi sống, tỷ lệ tổn thất sau thu hoạch cao; hạ tầng kỹ thuật còn yếu và thiếu đồng bộ, nhiều khu nuôi tập trung chưa được kết nối với công trình thủy lợi làm hạn chế áp dụng các biện pháp thâm canh cao,…
Để sản xuất thủy sản đạt được mục tiêu kế hoạch đến năm 2025, tổng sản lượng thủy sản của tỉnh đạt 45,0 ngàn tấn, giá trị tăng thêm lĩnh vực thủy sản tăng trưởng bình quân 3,7%/năm, phát triển sản xuất thủy sản của tỉnh rất cần sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương để tập trung chỉ đạo thực hiện tốt một số giải pháp cụ thể như sau:
Một là, tập trung chỉ đạo giải quyết, khắc phục những khó khăn trong thực tiễn phát triển sản xuất trên địa bàn tỉnh như: giải quyết những bất cập trong thủ tục hành chính cấp giấy chứng nhận đăng ký bè cá đối với các tổ chức, cá nhân đầu tư nuôi cá lồng trên sông; quan tâm đầu tư phát triển hạ tầng thủy lợi để chủ động cấp nước cho các khu ương giống và khu nuôi tập trung, tạo điều kiện thuận lợi để người dân đẩy mạnh áp dụng công nghệ thâm canh cho năng suất, chất lượng cao; thực hiện có hiệu quả các cơ chế, chính sách của trung ương, của tỉnh để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất, hệ thống dịch vụ; triển khai thực hiện có hiệu quả Luật Thủy sản và các văn bản quy định pháp luật lĩnh vực chuyên ngành.
Hai là, Tiếp tục chỉ đạo cơ cấu lại sản xuất theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, trong đó tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất theo hướng:
- Giảm quy mô số lồng nuôi trên sông, tăng quy mô lồng nuôi trong nuôi trong hồ chứa để khai thác có hiệu quả mặt nước hồ chứa, giảm thiểu thiệt hại do biến đổi khí hậu, thiên tai đối với hoạt động nuôi cá lồng trên sông Đà (mục tiêu đến 2025: tổng số lồng nuôi 1895 lồng, trong đó số lồng nuôi trên sông giảm 395 lồng còn 1596 lồng; tăng 395 lồng nuôi trong hồ chứa thành 600 lồng nuôi);
- Ổn định diện tích mặt nước chuyên nuôi thủy sản 5.600 ha (diện tích nuôi thâm canh đạt 2.735 ha, tăng 709 ha)
- Đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn người dân mở rộng quy mô nuôi các đối tượng thủy sản đặc sản (như cá lăng, cá chiên, cá bỗng, cá trắm đen, cá tầm…); thủy sản bản địa có giá trị kinh tế cao, gắn với nâng cao hiệu quả sử dụng mặt nước ao hồ nhỏ, ruộng 1 vụ (ốc nhồi, ếch, cua đồng, trạch đồng, trê đồng, trôi nhân, tép đồng,…); khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất như mô hình nuôi cá sông trong ao, mô hình nuôi ao nước chảy, mô hình nuôi tuần hoàn, mô hình nuôi cá nước lạnh, các mô hình sơ chế, chế biến sản phẩm (cá thính, cá khô, chả cá và các sản phẩm từ thủy sản) để góp phần khai thác tiềm năng nguồn nước từ các công trình thủy lợi lớn, nguồn nước lạnh để đa dạng sản phẩm, nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Tập trung chỉ đạo đẩy mạnh phát triển liên kết tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị gắn với các khu ương cá giống, khu nuôi tập trung, các cụm nuôi cá lồng theo hướng tổ chức sản xuất ở quy mô hợp tác xã, tổ hợp tác để giảm chi phí trung gian, nâng cao chất lượng sản phẩm, xấy dựng nhãn hiệu hàng hóa, mở rộng thị trường tiêu thụ để chủ động được đầu ra, tạo tiền đề dẫn dắt phát triển sản xuất.
Ba là, Tập trung thực hiện tốt giải pháp cấp mã số vùng nuôi thủy sản trên địa bàn tỉnh, coi đây là giải pháp trọng tâm trong giai đoạn 2021-2025 với phương châm: cấp mã số vùng nuôi gắn với hướng dẫn người dân chủ động nắm bắt, áp dụng các quy trình sản xuất an toàn, hạch toán kinh tế quy mô trang trại, xây dựng nhãn hiệu hàng hóa để có đủ điều kiện tiếp cận thị trường trên không gian mạng, sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin để quảng bá, tiêu thụ sản phẩm (zalo, facebook, youtobe).