Thực trạng kinh doanh, sử dụng thuốc trừ cỏ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ và giải pháp quản lý trong thời gian tới
Theo thống kê giai đoạn 2015 - 2018, hàng năm tỉnh Phú Thọ có diện tích trồng lúa khoảng 68 nghìn ha, ngô khoảng 18 nghìn ha, rau trên 13 nghìn ha, chè trên 16 nghìn ha, cây ăn quả khoảng 11,1 nghìn ha trong đó: Cây có múi (bưởi, cam) 3,9 nghìn ha, cây nhãn vải 1,7 nghìn ha; diện tích rừng trồng trên 120 nghìn ha....
Theo
thống kê giai đoạn 2015 - 2018, hàng năm tỉnh Phú Thọ có diện tích trồng lúa khoảng 68 nghìn ha, ngô khoảng 18 nghìn ha, rau trên 13 nghìn ha, chè trên 16 nghìn ha, cây ăn
quả khoảng 11,1 nghìn ha trong đó: Cây có
múi (bưởi, cam) 3,9 nghìn ha, cây nhãn vải 1,7 nghìn ha; diện tích rừng trồng
trên 120 nghìn ha.... Cùng với việc tham mưu chỉ đạo sản xuất nông nghiệp,
phòng trừ sâu bệnh hại, Chi cục Trồng trọt và BVTV đã thực hiện thống kê, đánh
giá thực trạng, tình hình kinh doanh, buôn bán, sử dụng thuốc BVTV nói chung và
thuốc trừ cỏ nói riêng trên địa bàn tỉnh. Trong bài viết này, chúng tôi xin nêu
một số vấn đề về thực trạng và giải pháp quản lý thuốc trừ cỏ trong thời gian tới.
Về thực trạng buôn bán, sử dụng thuốc trừ cỏ:
Theo thống kê, tổng sản lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) buôn bán,
sử dụng trên địa bàn toàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2016 đến hết tháng 6 năm 2018 là 240,09 tấn (Năm 2016 là 102,99 tấn; năm
2017 là 96,87 tấn; 6 tháng đầu năm 2018 là 40,23 tấn). Bình quân hàng năm 96,04
tấn thuốc BVTV, trong đó thuốc trừ cỏ 40,99 tấn, chiếm 42,68% (Trên toàn quốc,
ước tính lượng thuốc BVTV nhập khẩu và lưu thông bình quân 100 -
120 nghìn tấn/năm, trong đó thuốc trừ cỏ khoảng 45 - 54 nghìn tấn chiếm khoảng
45%). Như vậy, lượng thuốc BVTV, trong đó có thuốc trừ cỏ
được buôn bán và sử dụng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đang ở mức thấp hơn mức bình
quân chung của các tỉnh, thành phố của cả nước.
Tổng các loại thuốc BVTV đang được lưu thông, buôn bán và sử dụng trên địa
bàn tỉnh trong thời gian từ 2016 – 2018 gồm 380 loại, trong đó thuốc trừ sâu 205 loại; thuốc trừ bệnh 94 loại;
thuốc trừ cỏ 51 loại; thuốc trừ ốc 10 loại; thuốc trừ chuột 10 loại; thuốc
KTST 10 loại. Các loại thuốc BVTV trên đều có trong danh mục được phép sử dụng
ở Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành. Như vậy, số lượng các loại thuốc
thương phẩm buôn bán và sử dụng trên địa bàn tỉnh chiếm tỷ lệ thấp, bằng 9,3%
số lượng thuốc BVTV thương phẩm quy định trong danh mục (4.079 tên thương
phẩm), riêng thuốc trừ cỏ bằng 7,6% số lượng các loại thuốc trừ cỏ thương phẩm
quy định trong danh mục (713 tên thương phẩm).
Các hoạt chất thuốc trừ cỏ
đang được buôn bán, sử
dụng trên địa bàn tỉnh gồm 14 hoạt chất với 51 thương phẩm (Trong danh mục quy
định 234 hoạt chất với 713 thương phẩm), gồm: Hoạt
chất Paraquat có 9 tên
thương phẩm, hiện đang được nông dân sử dụng
trừ cỏ trên đất không trồng trọt, cỏ bờ
ruộng, cỏ trong vườn cây
lâu năm. Tổng lượng hàng năm khoảng 6,16 tấn, chiếm 6,42% tổng lượng thuốc BVTV
và chiếm 15,04% lượng thuốc trừ cỏ buôn bán, sử dụng trên địa bàn. Hoạt chất
Glyphosate gồm 10 tên thương phẩm hiện được nông dân sử dụng chủ yếu trên đất
không trồng trọt, trừ cỏ trên đất trước khi trồng cây ăn quả (nhãn, vải, cây có
múi), cây công nghiệp (Sơn, bạch đàn,...), cỏ bờ lô, trừ cỏ trên chân đất một
vụ khi không canh tác. Tổng lượng sử dụng bình quân hàng năm khoảng 3,62 tấn,
chiếm khoảng 3,77% tổng lượng thuốc BVTV và 8,83% tổng lượng thuốc trừ cỏ buôn
bán, sử dụng trên địa bàn. 12 hoạt chất còn lại với 32 tên thương phẩm, gồm các
hoạt chất: Acetochlor; Bensulfuron Methyl; Butachlor; Atrazine; Sulcotrione;
Bispyribac-sodium; Propisochlor; Quinclorac; Pretilachlorl; Clethodim;
Cyhalofop-butyl; Ethoxysulfuron. Loại thuốc trừ cỏ này được nông dân sử dụng trên
các đối tượng cây trồng hàng năm như lúa, ngô, cây màu. Tổng lượng buôn bán và sử
dụng bình quân hàng năm khoảng 31,21 tấn, chiếm khoảng 32,49% tổng lượng thuốc
BVTV và 76,13% tổng lượng thuốc trừ cỏ buôn bán và sử dụng trên địa bàn. Theo
Quyết định số 278/QĐ-BNN-BVTV ngày 08/2/2017 của Bộ Nông nghiệp và PTNT về việc
loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật chứa hoạt chất 2,4D và Paraquat ra khỏi danh mục
thuốc bảo vệ thực vật được phép sử dụng tại Việt Nam thì đến ngày 08/02/2019,
toàn bộ các loại thuốc trừ cỏ có chứa hoạt chất Paraquat sẽ bị loại khỏi danh
mục thuốc BVTV được phép sử dụng ở Việt Nam.
Theo kết quả thanh tra, kiểm tra sử dụng thuốc trên
địa bàn những năm vừa qua, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nói chung trên
đồng ruộng, vườn đồi của người nông dân và các doanh nghiệp cơ bản đã được thực
hiện theo nguyên tắc 4 đúng. Việc sử dụng thuốc trừ cỏ nói riêng cũng đã đảm
bảo theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất ghi trên bao bì. Kết quả phân tích dư
lượng thuốc bảo vệ thực vật trên nông sản phẩm (rau, quả, chè) trên địa bàn
những năm qua không phát hiện thấy có dư lượng thuốc trừ cỏ.
Bên cạnh đó, Sở Nông nghiệp và PTNT cũng đã chỉ đạo
các đơn vị trong ngành tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn, hướng dẫn
người dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trong đó có thuốc trừ cỏ đảm bảo an
toàn, hiệu quả theo nguyên tắc 4 đúng đồng thời tăng cường hướng dẫn công tác
thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng để giảm thiểu tác hại của
thuốc bảo vệ thực vật nói chung và thuốc trừ cỏ nói riêng đối với sức khỏe con
người và môi trường. Trong điều kiện hiện nay, do chuyển dịch cơ cấu lao động
làm cho lao động nông nghiệp đang bị thiếu hụt, việc sử dụng thuốc trừ cỏ có
tác dụng tích cực là tiêu diệt các loại cỏ dại để đảm bảo năng suất và chất
lượng cây trồng, dễ sử dụng, giảm công lao động đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tình trạng sử dụng thuốc trừ cỏ sai kỹ
thuật, phun thuốc trừ cỏ trên công trình giao thông công cộng, trong khu đô
thị, khu đông dân cư…không tuân thủ nguyên tắc 4 đúng, vứt bao bì bừa bãi trên
đồng ruộng, gần nguồn nước làm ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng, đến môi
trường đất, nước, không khí, đến các loài sinh vật khác, đặc biệt là ảnh hưởng
trực tiếp hay gián tiếp đến sức khỏe con người. Nguyên nhân: Do sản xuất còn
manh mún, số lượng người sử dụng, tiếp xúc trực tiếp với thuốc trừ cỏ nhiều;
hiểu biết kỹ thuật, nhận thức về trách nhiệm của người buôn bán, sử dụng thuốc
còn hạn chế; do thói quen của người dân dựa vào thuốc hóa học, thiếu quan tâm
đến các biện pháp thân thiện môi trường; số lượng cửa hàng buôn bán thuốc còn
nhiều, điều kiện kinh doanh lỏng lẻo; lực lượng thanh tra, kiểm tra liên ngành
cấp huyện còn mỏng và ở một số nơi làm chưa hết trách nhiệm; vai trò của chính
quyền cơ sở trong việc tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc buôn
bán, sử dụng thuốc trừ cỏ, thu gom bao gói sau sử dụng chưa được phát huy và
quan tâm đúng mức; chế tài xử phạt vi phạm đối với người sử dụng thuốc chưa đủ
sức răn đe và khó được thực thi…
Về giải pháp quản lý đối với việc buôn bán, sử dụng thuốc trừ cỏ trong thời
gian tới:
- Cần tiếp tục tuyên truyền, khuyến cáo cho cộng đồng, người buôn bán, sử
dụng nâng cao nhận thức về thuốc bảo vệ thực vật an toàn, hiệu quả theo nguyên
tắc 4 đúng, nhất là trong sử dụng thuốc trừ cỏ, thu gom và tiêu hủy triệt để
bao gói thuốc sau sử dụng.
- Đẩy mạnh công tác đào tạo, tập huấn, nâng cao trình độ nguồn nhân lực và
cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị phục vụ công tác quản lý; tiếp tục đánh
giá, phát hiện và kiến nghị Bộ Nông nghiệp và PTNT loại bỏ một số thuốc kém
chất lượng, hiệu quả thấp hoặc có nguy cơ gây độc hại cho môi trường và con
người.
- Tuyên truyền, hướng dẫn nông dân và doanh nghiệp áp dụng các giải pháp
khoa học công nghệ thân thiện với môi trường như làm đất tối thiểu, che phủ
nilon mặt ruộng, điều tiết nước, điều chỉnh mật độ cây trồng, sử dụng thuốc trừ
cỏ sinh học…để giảm thiểu sử dụng thuốc trừ cỏ hóa học.
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể các cấp và chính quyền cấp cơ sở
trong việc tuyên truyền, khuyến cáo, giám sát việc buôn bán, sử dụng thuốc BVTV
nói chung và thuốc trừ cỏ nói riêng của người dân trên địa bàn tỉnh.
- Quản lý chặt chẽ thuốc trừ cỏ, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra về
kinh doanh, buôn bán, sử dụng thuốc trừ cỏ, phát hiện và xử lý nghiêm các vi
phạm./.