Nhảy đến nội dung

Đánh giá kết quả phòng trừ sâu bệnh vụ xuân 2017

Nghe bài viết Play Pause

Vụ xuân 2017, nền nhiệt độ cao hơn rất nhiều so với
trung bình nhiều năm, cây lúa và các cây trồng ngắn ngày trong vụ sinh trưởng
thuận lợi, nhưng đối với một số cây ăn quả dài ngày như vải, bưởi thì ngược lại.
Đây cũng là vụ thời tiết phù hợp cho nhiều đối tượng sâu bệnh phát sinh gây
hại, có những diễn biến phức tạp hơn so với nhiều năm.

Đối với cây lúa, tổng diện
tích gieo cấy lúa của tỉnh là 36.998 ha, trong đó diện tích lúa lai đạt 19.280
ha; lúa chất lượng đạt trên 9.216 ha; diện tích áp dụng SRI đạt 13.054 ha. C
ây lúa sinh
trưởng khá thuận lợi ngay từ đầu vụ
, các trà lúa trỗ và thu hoạch sớm hơn cùng kỳ 2016 khoảng 1 tuần. Một số đối tượng sâu bệnh có quy mô và mức độ
gây hại nhẹ, nhưng cũng có một số đối tượng
sâu bệnh cũng phát
sinh sớm
và có quy mô tăng
hơn so với cùng kỳ năm trước (CKNT): Bệnh
đạo ôn
diện tích nhiễm là 582,5 ha, trong đó nhiễm nặng 1,5 ha, sớm và cao
hơn so với CKNT (năm 2016 nhiễm 127 ha, trong đó nhiễm nặng 1,1 ha) chủ yếu
trên các giống nếp
, JO2, BC15,TBR225, HT1, ... Bệnh khô vằn diện tích nhiễm 7.820,9 ha, trong đó
nhiễm nặng 918,1 ha
, cao hơn
so với CKNT
(Năm 2016 diện tích nhiễm 6.600,9 ha, trong đó nhiễm
nặng 251,1ha).
Bệnh bạc lá, đốm sọc vi khuẩn diện tích nhiễm 273,0 ha, mức độ hại nhẹ
đến trung bình
, quy mô và mức
độ hại thấp hơn so với
CKNT.
Một số đối tượng khác như rầy các loại, sâu đục thân, sâu cuốn lá nhỏ mặc dù
quy mô gây hại thấp hơn so với CKNT nhưng có xu hướng hại mạnh vào cuối vụ.
Ngoài ra: ốc bươu vàng, bọ xít dài, ruồi đục nõn,... gây hại không đáng kể, mức
độ nhẹ.

Riêng đối với chuột, trong điều kiện ấm
chúng đã sinh sản thuận lợi ngay từ vụ đông, p
hát sinh sớm và gây hại trên diện rộng, nhưng công tác diệt chuột tập
trung ở nhiều địa phương trong tỉnh đã triển khai tốt nên quy mô và mức độ hại
của chuột giảm so với CKNT. Diện tích nhiễm 1.252,7 ha, trong đó nhiễm nặng 3,7
ha (Năm 2016 diện tích nhiễm 1.328 ha, trong đó nhiễm nặng 14 ha).

Đánh giá tỷ lệ thiệt hại do sâu bệnh gây ra đối với
cây lúa cho thấy, tỷ lệ thiệt hại là 0,117% (thiệt
hại trên trà trung 0,148%, trà muộn 0,103%), cao hơn so với vụ xuân năm trước (V
ụ xuân 2016 là 0,045%), nhưng vẫn thấp hơn nhiều
so chỉ tiêu đề ra (tỷ lệ thiệt hại dưới 1%), đảm bảo an toàn cho sản xuất.

Đối với sâu bệnh trên cây ngô và cây rau
màu khác, nhìn chung là tương đương và thấp hơn TBNN và CKNT.

Đối với cây chè nhiều đối tượng sâu hại
chính đều phát sinh sớm và tăng quy mô hại so với CKNT (Bọ cánh tơ: Diện tích
nhiễm 4.253 ha, cao hơn 2.454 ha; Rầy xanh: Diện tích nhiễm 4.784 ha, cao hơn
3.196 ha; Bọ xít muỗi: Diện tích nhiễm 2.810 ha, cao hơn 2.113 ha). Trong khi
đó nhiệt độ cao, khô hạn đã làm cho cây chè bập búp kém và chậm hơn so với vụ
trước.

Đối với cây ăn quả có múi: Bọ xít hại nhẹ tại các vùng
trồng bưởi. Bệnh loét, rệp, nhện đỏ, bệnh chảy gôm, bệnh thán thư, sâu ăn lá,
bệnh thối hoa thối quả phát sinh gây hại rải rác.

Đối với cây lâm
nghiệp:
Châu chấu xuất hiện ở 21 xã trên 4 huyện (Đoan Hùng,
Tam Nông, Yên Lập, Hạ Hòa). Diện tích nhiễm châu chấu non 134,36 ha, trong đó
trên đồi rừng, bờ cỏ là 130,52 ha; trên lúa, ngô là 3,84 ha. Công tác điều tra
và DTDB đối với châu chấu được triển khai quyết liệt, toàn bộ diện tích châu
chấu non trên địa bàn tỉnh đã được phát hiện và phòng trừ kịp thời. Sâu ong hại
cục bộ tại Xuân Đài, Kim Thượng (Tân Sơn) cũng được xử lý, phòng trừ hiệu quả.
Ngoài ra: Bệnh đốm lá, bệnh chết ngược, sâu ăn
lá, bệnh phấn trắng phát sinh gây hại rải rác trên cây keo, bạch đàn.

Kết quả phòng trừ sâu bệnh trong
vụ cho thấy, hầu hết diện tích nhiễm sâu bệnh đến ng­ưỡng
đ­ược phòng trừ kịp thời: Tổng diện tích nhiễm sâu bệnh là 28.675,56 lượt ha;
trong đó nhiễm trung bình đến nặng là 5.669,5 lượt ha; Tổng diện tích đã phòng
trừ là 9.277,86 lượt ha, trong đó phòng trừ trên cây lúa là 8.105,38 ha; chè
872,5 ha, các cây trồng khác 299,98 ha. Công tác điều tra dự tích dự báo chính
xác và tham mưu kịp thời tới các cấp chính quyền về chỉ đạo và hướng dẫn phòng
trừ. Diện tích sản xuất an toàn, biện pháp canh tác lúa theo SRI, áp dụng quản
lý dịch hại tổng hợp (IPM) tiếp tục được mở rộng, góp phần quan trọng trong bảo
vệ mùa màng, hạn chế sâu bệnh hại, đồng thời bảo vệ môi trường và đảm bảo an
toàn thực phẩm./.

Trường Giang
– Chi cục Bảo vệ thực vật