Nhảy đến nội dung

Thực hiện các chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm ở Lâm Thao

Nghe bài viết Play Pause
UBND huyện xây dựng kế hoạch về thực hiện các chương trình sản xuất nông nghiệp trọng điểm giai đoạn 2007- 2010 để quán triệt, triển khai tới tất cả các xã, thị trấn và các cơ quan, ban ngành ở huyện. Trong quá trình thực hiện, huyện đã chú trọng tới việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất, thâm canh, nhất là ứng dụng tiến bộ công nghệ sinh học nhằm tạo ra sự bứt phá về năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng nhanh giá trị và hiệu quả kinh tế trên một đơn vị diện tích; đồng thời huy động tối đa nguồn nội lực trong nhân dân, cùng với ngân sách Nhà nước để đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, tạo thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp phát triển. Do vậy lĩnh vực này trên địa bàn huyện đã có bước phát triển toàn diện.


Nổi bật nhất trong 4 chương trình kinh tế trọng điểm của huyện, đó chính là chương trình chăn nuôi lợn lai, bò lai chất lượng cao. Chăn nuôi vốn được coi là ngành kinh tế mũi nhọn trọng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nội bộ ngành nông nghiệp. Theo đó, từ những chính sách khuyến khích của tỉnh, của huyện, nhiều hộ đã mạnh dạn dồn đổi ruộng đất hay thuê đất để tích tụ thành những vùng diện tích lớn và đầu tư xây dựng các mô hình kinh tế trang trại có quy mô vừa và nhỏ, chăn nuôi từ hàng chục đến hơn 100 con. Xu hướng chăn nuôi lợn hướng nạc, lợn nái ngoại đang được mở rộng về quy mô, từng bước thay thế đàn lợn nội năng suất thấp, chất lượng và phẩm chất không cao. Đàn bò cũng được cải tạo theo hướng sind hóa, lai tạo với các giống bò thịt có chất lượng cao. Năm 2007, tổng đàn lợn toàn huyện đạt gần 42.800 con với sản lượng thịt hơi trên 6.740 tấn, tăng 34,3% so với cùng kỳ, trong đó đàn lợn ngoại, lợn lai chiếm tỷ lệ trên 50% tổng đàn; tổng đàn bò đạt 14.545 con, trong đó tỷ lệ lai sind đạt 20% tổng đàn. Kết quả này đã góp phần đưa giá trị thu nhập từ chăn nuôi đạt trên 83 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 39,17% trong cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp.


Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản, do thực hiện quy hoạch, phân vùng sản xuất, vận động nhân dân dồn đổi ruộng đất tự nguyện trong nông nghiệp và chuyển những diện tích sâu trũng, cấy lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản nhằm đem lại giá trị kinh tế cao hơn cực nên nghề này trên địa bàn huyện đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, diện tích và hình thức nuôi thả. Đến nay đã có 512 ha diện tích nuôi trồng thủy sản với sản lượng khai thác đạt trên 1.483 tấn, bình quân đạt năng suất 2 - 2,4 tấn/ha. Từ năm 2004 đến năm 2007, UBND huyện đã phê duyệt dự án cho 64 hộ chuyển những diện tích trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản với diện tích 155,1 ha. Các giống thủy sản mới như rô phi đơn tính, chép lai, cá chim trắng, cá vược ngày càng được mở rộng, tỷ lệ đưa vào sản xuất đạt 20%.


Các chương trình phát triển cây lương thực, chương trình sản xuất cây vụ đông cũng được huyện chú trọng và đạt kết quả khá. Trong trồng trọt, nhân dân đã tập trung chuyển đổi cơ cấu các trà lúa, giống lúa theo hướng tăng diện tích trà xuân muộn, mùa sớm lên đạt trên 80% tổng diện tích, đồng thời giảm thiểu diện tích trà mùa trung và trà mùa muộn, vừa giảm được căng thẳng về thời vụ cho sản xuất vụ đông, lại vừa làm tăng đáng kể năng suất, sản lượng cây lúa, đảm bảo được vấn đề an ninh lương thực trên địa bàn. Ngoài chính sách trợ giá giống lúa lai, lúa chất lượng cao của tỉnh, hàng năm huyện còn trích ngân sách hỗ trợ cho việc đưa các giống lúa lai, lúa chất lượng cao mới vào sản xuất nhằm thay thế dần giống lúa thuần KD 18, làm cho diện tích lúa lai, lúa chất lượng cao đưa vào mỗi vụ đạt bình quân trên 18%. Bên cạnh đó, cây ngô lai cũng được mở rộng diện tích, nhiều HTX còn chủ động liên kết với các Viện nghiên cứu Trung ương sản xuất hạt giống ngô lai từ 30 - 40 ha mỗi năm đã đem lại kết quả đáng kể, bình quân năng suất đạt trên 45 tạ/ha, góp phần đưa sản lượng cây có hạt toàn huyện đạt 39 - 40 ngàn tấn. Diện tích cây vụ đông cũng được chú trọng phát triển, mở rộng diện tích lên đạt xấp xỉ 2.000 ha, đã trở thành vụ sản xuất chính trong năm với nhiều loại rau màu có giá trị kinh tế như: ngô giống, cà chua, khoai tây, cải thảo, súp lơ, rau thơm, đậu đỗ các loại… góp phần đưa giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha canh tác toàn huyện đạt 39,2 triệu đồng/năm.


Thông qua việc thực hiện 4 chương trình kinh tế nông nghiệp trọng điểm đã làm cho bức tranh kinh tế nông nghiệp của huyện có nhiều khởi sắc. Sản xuất của bà con đã từng bước chuyển từ nhỏ lẻ, tự cung tự cấp sang quy mô lớn, có tính hàng hóa cao, đáp ứng nhu cầu của thị trường và nhu cầu tăng giá trị thu nhập. Tuy nhiên, trong sản xuất, vùng sản xuất hàng hóa tập trung trên địa bàn vẫn chưa được hình thành rõ rệt, còn mang tính tự phát; kinh nghiệm trong đầu tư, thâm canh của một số hộ hạn chế nên hiệu quả đạt được chưa cao; quá trình thực hiện các chương trình dự án vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết như thị trường tiêu thụ sản phẩm; vệ sinh môi trường; vấn đề quản lý dịch bệnh và vệ sinh thú y… Nông nghiệp nông thôn là nội dung hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế nói chung, do vậy, từ nay đến năm 2010, huyện Lâm Thao tiếp tục thực hiện tốt 4 chương trình nông nghiệp trọng điểm đã xác định nhằm khai thác triệt để các tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương, vừa đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phấn đấu đến hết giai đoạn, tổng đàn lợn trên địa bàn có gần 52.400 con, trong đó đàn nái ngoại từ 750 - 800 con, tỷ lệ lợn lai, lợn ngoại đạt trên 60% tổng đàn; tổng đàn bò có 15.567 con với tỷ lệ bò lai, bò thịt chất lượng cao chiếm 30% tổng đàn; diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 730 ha, trong đó diện tích nuôi chuyên cá đạt 593 ha, sản lượng đạt 2.000 – 2.200 tấn/năm. Đối với lĩnh vực trồng trọt, huyện tiếp tục ổn định việc bố trí cơ cấu trà lúa trong các mùa vụ và mở rộng diện tích cây vụ đông đạt 2.000 – 2.100 ha, chủ lực là cây ngô và các loại rau màu có giá trị kinh tế cao, phấn đấu đưa sản lượng lương thực cây có hạt toàn huyện đạt 42.000 – 43.000 tấn, bình quân lương thực đầu người trên 400 kg/người/năm. Về các giải pháp, Lâm Thao chủ trương tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc quy hoạch phân vùng sản xuất nông nghiệp; khai thác tốt các nguồn lực để tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn, nâng cao tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp, đồng thời đẩy mạnh đầu tư thâm canh, ứng dụng các tiến bộ KHKT, công nghê mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, tăng nhanh giá trị, hiệu quả thu nhập trên một đơn vị diện tích và nhất là tăng sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.