Hình thức nuôi lươn hiệu quả và phổ biến hiện nay là nuôi trên bể không bùn bằng giống nhân tạo và sử dụng thức ăn viên. Hình thức nuôi này có ưu điểm: Cỡ giống đồng đều, chất lượng giống ổn định, sử dụng được thức ăn viên giúp cho tỷ lệ sống cao và thuận lợi trong quá trình nuôi; đặc biệt mô hình này ít tốn diện tích phù hợp cho hộ ít đất sản xuất, phù hợp cả nơi đô thị, ít tốn thời gian, dễ áp dụng kỹ thuật, cho thu nhập cao
Hình thức nuôi lươn hiệu quả và phổ biến hiện nay là nuôi trên bể không bùn bằng giống nhân tạo và sử dụng thức ăn viên. Hình thức nuôi này có ưu điểm: Cỡ giống đồng đều, chất lượng giống ổn định, sử dụng được thức ăn viên giúp cho tỷ lệ sống cao và thuận lợi trong quá trình nuôi; đặc biệt mô hình này ít tốn diện tích phù hợp cho hộ ít đất sản xuất, phù hợp cả nơi đô thị, ít tốn thời gian, dễ áp dụng kỹ thuật, cho thu nhập cao
Ông Vũ Văn Phúc xã Liên Hoa huyện Phù Ninh tỉnh Phú Thọ đã gắn bó với nghề nuôi lươn truyền thống nhiều năm chủ yếu nguồn giống là thu gom từ đánh bắt ngoài tự nhiên. Mô hình này bộc lộc nhiều hạn chế như khó quản lý số lượng đầu con do lươn chui dúc trong bùn, tốc độ tăng trưởng chậm, kích cỡ không đồng đều… Mô hình nuôi lươn không bún đã khắc chế được một số hạn chế của nuôi lươn truyền thống và khả năng thâm canh cao đáp ứng nhu cầu của nhà nông. Được sự hỗ trợ về kỹ thuật của Chi cục Thủy sản và Trạm Khuyến Nông huyện Phù Ninh hỗ trợ 10.000 con giống lươn giống kích cỡ 250 con/kg, mật độ nuôi 200 con/m2. Qua 8 tháng triển khai mô hình lươn sinh trưởng và phát triển tốt, ít gặp bệnh dịch, đến nay đã đạt kích cỡ từ 100-150g/con, tỷ lệ sống đạt trên 70%. Ông Phúc chia sẻ: trước kia gia đình tôi nuôi 4 bể lươn kích thước từ 6-7m2/bể được sự hỗ trợ về con giống để thực hiện chuyển đổi hình thức nuôi gia đình tôi đã xây dựng thêm 6 bể diện tích từ 6-8m2/bể. Qua qúa trình nuôi tôi thấy ưu điểm của nuôi lươn không bùn là ít tốn công chăm sóc do sử dụng là thức ăn công nghiệp,tỷ lệ sống cao và kiểm soát được tỷ lệ sống, ít tốn diện tích, đầu ra thuận lợi dễ đánh bắt và giá cả luôn ổn định ở mức cao. Mặt khác lươn ít nhiễm bệnh, do không tiếp xúc với vi khuẩn trong môi trường bùn đất. Hiện lươn thương phẩm kích cỡ 150-200g/con ông Phúc đang bán với giá 130.000 đ/kg cho các cho các hộ, thương lái, chủ nhà. Bình quân 1 bể nuôi lươn không bùn kích thước 6m2 ông thu hơn 100kg lươn sau khi trừ hết chi phí ông thu lãi trên 40 triệu đồn/bể.
Về thiết kế bể nuôi lươn: chiều cao bể từ 70-80cm bên trong thành và đáy bể được ốp gạch men, điều này giúp cho lươn không bị tổn thương, trầy xước. Mặt khác, đáy bể được thiết kế có cống thoát nước để thuận tiện trong việc thay nước và vệ sinh, toàn bộ bể nuôi được che mát bằng bạt hoặc mái tôn. Gía thể để cho lươn chú ẩn là các bó dây ni nông có chiều dài từ 3-4m tùy theo chiều dài của bể được chia làm nhiều bó, bố trí các cây đòn gác ngang lên thành bể, một đầu bó ni nông cột vào đòn và một đầu thả tự do vào bể. Những bó sợi ni nông trong bể sẽ đóng vai trò như tổ của lươn. Sàng cho ăn là khung hình chữ nhật làm bằng tre hoặc ống nhựa, rải thức ăn vào bên trong khu để quản lý thức ăn.
Chọn giống và thả giống: Chọn lươn giống có chất lượng tốt được sản xuất tại các cơ sở có uy tín; lươn giống phải đảm bảo đã ăn tốt thức ăn viên tổng hợp (thức ăn công nghiệp). Lươn giống được chọn phải có màu sắc tươi sáng (màu vàng sẫm), khỏe mạnh, bơi lội linh hoạt và đồng cỡ; trọng lượng từ 300 - 500 con/kg; không chọn lươn giống bị sây sát, mất nhớt hay dị hình để thả nuôi. Mật độ thả nuôi từ 100 - 200 con/m2 , tùy điều kiện quản lý, chăm sóc của người nuôi. Trước khi thả vào bể nuôi, lươn giống cần được tắm qua dung dịch nước muối loãng 2 - 3‰ (2 - 3 gram muối pha với 1lít nước) trong khoảng thời gian từ 5 - 10 phút. Thả giống vào bể nuôi bằng cách lấy nước từ bể nuôi đổ nhẹ nhàng vào dụng cụ chứa lươn giống (thau, xô, thùng 8 xốp,…) để lươn kịp thích nghi, sau đó nghiêng dụng cụ chứa để lươn di chuyển ra ngoài
Thức ăn và chế độ cho ăn: Nuôi lươn không bùn nên dùng thức ăn công nghiệp có kích cỡ viên phù hợp với lươn giống, đảm bảo duy trì hàm lượng chất đạm (protein) ở mức từ 40 - 50%, tùy theo giai đoạn phát triển của lươn; giai đoạn lươn còn nhỏ cần cho ăn loại thức ăn có hàm lượng đạm cao. Ở giai đoạn lươn còn nhỏ, thức ăn công nghiệp thường được tưới nước cho ẩm, sau đó vò thành viên rồi đặt vào sàn vỉ cho lươn ăn. Sử dụng thức ăn viên nổi cho lươn ăn, cần bố trí khung bằng ống nhựa để giữ thức ăn, tránh bị phân tán khắp bể nuôi; nên cho lươn ăn ở một vài vị trí cố định trong bể nuôi để lươn quen với vị trí ăn mồi. Trong thời gian khoảng 2 tháng đầu (sau khi thả giống), mỗi ngày cho lươn ăn với lượng thức ăn chiếm khoảng 5 - 7% so với tổng khối lượng lươn có trong bể nuôi (1 kg lươn nuôi cho ăn 50 - 70 gram thức ăn/ngày). Sau 2 tháng nuôi, mỗi ngày cho lươn ăn với lượng thức ăn chiếm khoảng 3 - 4% so với tổng khối lượng lươn có trong bể nuôi; kết hợp với theo dõi khả năng bắt mồi của lươn để điều chỉnh lượng thức ăn cho phù hợp. Khi thay đổi loại thức ăn, cần được thực hiện dần trong khoảng thời gian từ 5 - 7 ngày để lươn thích nghi với loại thức ăn mới, tránh thay đổi đột ngột dẫn đến lươn giảm ăn hoặc bỏ ăn. Lượng thức ăn trong ngày, được chia làm 2 lần/ngày cho ăn vào lúc 7 - 8 giờ sáng và 5 - 6 giờ chiều; cần phối trộn thức ăn với vitamine C và men tiêu hóa xen kẽ nhau với liều lượng 1 - 2 gram/kg thức ăn, nhằm giúp lươn tiêu hóa tốt thức ăn và tăng cường sức đề kháng.
- Quản lý nước: Hàng ngày cần thay 100% lượng nước trong bể nuôi bằng nguồn nước đã xử lý ở bể chứa; thay nước thường được thực hiện sau khi cho lươn ăn khoảng 1 - 2 giờ vào lúc thời tiết mát mẻ để hạn chế gây sốc cho lươn do chênh lệnh nhiệt độ. Khi thay nước cần chú ý kiểm tra các yếu tố môi trường nước, nhất là nhiệt độ và pH của nước cấp thay phải khá tương đồng với nước trong bể nuôi. Khi cấp nước vào bể nuôi, cần thận trọng không nên để vòi nước phun trực tiếp vào cơ thể lươn. Duy trì mực nước trong bể nuôi khoảng từ 20 - 30 cm tùy theo giai đoạn phát triển của lươn và đảm bảo mực nước phải ngập các giá thể trú ẩn.
- Quản lý sức khỏe, giá thể: Thường xuyên vệ sinh bể nuôi, tránh để cặn bã tích tụ nhiều trong bể; tránh để bể nuôi tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng có cường độ chiếu sáng cao làm tăng nhiệt độ nước bể nuôi và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của lươn. Sau khoảng 2 tháng nuôi, tiến hành phân cỡ tách lươn lớn, nhỏ nuôi riêng nhằm tránh cho lươn bị tổn thương do tranh thức ăn hoặc ăn lẫn nhau. Khi nhiệt độ giảm xuống cần phải che chắn bể nuôi nhằm hạn chế tác động của không khí lạnh.
- Thu hoạch: Sau khoảng thời gian nuôi từ 8-12 tháng, lươn đạt trọng lượng từ 150 gram/con trở lên có thể thu hoạch.
|
|
Mô hình nuôi lươn không bùn tại hộ Vũ Văn Phúc xã Liên Hoa huyện Phù Ninh |
ảnh lươn và giá thể.jpg
anh lươn.jpg
TRIỂN VỌNG TỪ NGHỀ NUÔI LƯƠN KHÔNG BÙN.docx