Trên địa bàn huyện hiện có 2 công ty lâm nghiệp, Vườn Quốc gia Xuân Sơn, 3 xí nghiệp chè phát triển qua các thời kỳ là một trong những nhân tố tích cực trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về phát triển kinh tế đồi rừng đối với nhân dân trong huyện.
Thực hiện các chính sách của Nhà nước sản xuất nông lâm nghiệp nói chung và phát triển kinh tế đồi rừng nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định. Về lâm nghiệp diện tích rừng đặc dụng là 15.048 ha, rừng phòng hộ 9.450 ha, rừng sản xuất 36.590 ha độ che phủ rừng đạt 73,2%. Diện tích rừng trồng mới tập trung 1.734 ha tăng 44%. Sản lượng gỗ nguyên liệu giấy khai thác 50.100m3 .
Diện tích chè 2.847,3 ha tăng 5,9%, tăng 158 ha so với cùng kỳ, trong đó: Diện tích chè trong dân 1.743,3 ha; diện tích chè liên doanh 939 ha; diện tích chè của các đơn vị kinh tế, cơ quan khác 165 ha. Tổng sản lượng chè búp tươi 19.200 tấn tăng 145,1%, tăng 5.973 tấn so với cùng kỳ. Năng suất chè búp tươi bình quân 79 tạ/ha tăng 149%. Giá trị sản phẩm đạt 26.004 triệu đồng.
Các cây kinh tế đồi rừng khác như cây sơn, cây ăn quả đạt 272 ha. Tuy nhiên, những kết quả này chưa tương xứng với lợi thế tiềm năng đất đai, nguồn nhân lực số hộ làm giàu từ kinh tế đồi rừng chưa nhiều, sản xuất còn nhỏ lẻ chưa tạo thành vùng hàng hoá tập trung chủ yếu vẫn là các công ty lâm nghiệp. Những tồn tại trên là do nhân dân chưa nhận thức được lợi ích kinh tế từ đồi rừng, có tư tưởng trông chờ ỷ lại vào cấp trên. Cấp uỷ chính quyền một số địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo sản xuất nhất là phát triển kinh tế đồi rừng. Công tác chuyển giao kỹ thuật, công tác bảo vệ rừng còn nhiều hạn chế…
Tân Sơn đã đặt ra mục tiêu là phấn đấu đến năm 2010 bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, giữ ổn định độ che phủ của rừng đạt từ 70% trở lên, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt từ 120 tỷ đồng trở lên trong đó khai thác rừng đạt 40 tỷ. Giải quyết ổn định cho 7.000 lao động có thu nhập ổn định. Định hướng đến 2015 giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt trên 250 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 14.000 lao động có thu nhập từ 8 triệu đồng/người/năm trở lên. Phát huy lợi thế vùng núi cao để phát triển một số sản phẩm đặc trưng có thế mạnh của huyện như trồng Chè xanh chất lượng cao chiếm 25% trong tổng diện tích chè, giá trị sản xuất đạt trên 50 tỷ đồng vào năm 2015, giải quyết cho 6.000 lao động có thu nhập 8,3 triệu đồng/người/năm trở lên. Trồng cây dược liệu, trồng hoa ôn đới, trồng cây nhiên liệu sinh học và các loại cây đặc sản theo hướng sản xuất hàng hoá.
Để đạt được kết quả cao nhất Tân Sơn cần từng bước đa dạng các tập đoàn giống cây lâu năm có giá trị kinh tế cao để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cùng đơn vị diện tích canh tác, nâng cao mức thu nhập cho nhân dân. Tạo tiền đề phát triển cho các ngành nghề lĩnh vực như du lịch sinh thái, chế biến lâm sản góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Rà soát 3 loại rừng đảm bảo ổn định diện tích. Đẩy mạnh công tác chuyển giao áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng rừng. Sản xuất nông lâm kết hợp theo hình thức luân canh, xen canh tận dụng quỹ đất. Tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình liên doanh liên kết sản xuất giữa các hộ gia đình, các trang trại các chủ doanh nghiệp để xúc tiến gắn với tiêu thụ sản phẩm kinh tế đồi rừng.
Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tạo việc làm và nâng cao mức thu nhập của nhân dân là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Tân Sơn từng bước đưa kinh tế đồi rừng trở thành ngành kinh tế chính giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện.
Thực hiện các chính sách của Nhà nước sản xuất nông lâm nghiệp nói chung và phát triển kinh tế đồi rừng nói riêng đã đạt được những kết quả nhất định. Về lâm nghiệp diện tích rừng đặc dụng là 15.048 ha, rừng phòng hộ 9.450 ha, rừng sản xuất 36.590 ha độ che phủ rừng đạt 73,2%. Diện tích rừng trồng mới tập trung 1.734 ha tăng 44%. Sản lượng gỗ nguyên liệu giấy khai thác 50.100m3 .
Diện tích chè 2.847,3 ha tăng 5,9%, tăng 158 ha so với cùng kỳ, trong đó: Diện tích chè trong dân 1.743,3 ha; diện tích chè liên doanh 939 ha; diện tích chè của các đơn vị kinh tế, cơ quan khác 165 ha. Tổng sản lượng chè búp tươi 19.200 tấn tăng 145,1%, tăng 5.973 tấn so với cùng kỳ. Năng suất chè búp tươi bình quân 79 tạ/ha tăng 149%. Giá trị sản phẩm đạt 26.004 triệu đồng.
Các cây kinh tế đồi rừng khác như cây sơn, cây ăn quả đạt 272 ha. Tuy nhiên, những kết quả này chưa tương xứng với lợi thế tiềm năng đất đai, nguồn nhân lực số hộ làm giàu từ kinh tế đồi rừng chưa nhiều, sản xuất còn nhỏ lẻ chưa tạo thành vùng hàng hoá tập trung chủ yếu vẫn là các công ty lâm nghiệp. Những tồn tại trên là do nhân dân chưa nhận thức được lợi ích kinh tế từ đồi rừng, có tư tưởng trông chờ ỷ lại vào cấp trên. Cấp uỷ chính quyền một số địa phương chưa thực sự quan tâm chỉ đạo sản xuất nhất là phát triển kinh tế đồi rừng. Công tác chuyển giao kỹ thuật, công tác bảo vệ rừng còn nhiều hạn chế…
Tân Sơn đã đặt ra mục tiêu là phấn đấu đến năm 2010 bảo vệ tốt diện tích rừng hiện có, giữ ổn định độ che phủ của rừng đạt từ 70% trở lên, giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt từ 120 tỷ đồng trở lên trong đó khai thác rừng đạt 40 tỷ. Giải quyết ổn định cho 7.000 lao động có thu nhập ổn định. Định hướng đến 2015 giá trị sản xuất lâm nghiệp đạt trên 250 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho 14.000 lao động có thu nhập từ 8 triệu đồng/người/năm trở lên. Phát huy lợi thế vùng núi cao để phát triển một số sản phẩm đặc trưng có thế mạnh của huyện như trồng Chè xanh chất lượng cao chiếm 25% trong tổng diện tích chè, giá trị sản xuất đạt trên 50 tỷ đồng vào năm 2015, giải quyết cho 6.000 lao động có thu nhập 8,3 triệu đồng/người/năm trở lên. Trồng cây dược liệu, trồng hoa ôn đới, trồng cây nhiên liệu sinh học và các loại cây đặc sản theo hướng sản xuất hàng hoá.
Để đạt được kết quả cao nhất Tân Sơn cần từng bước đa dạng các tập đoàn giống cây lâu năm có giá trị kinh tế cao để nâng cao hiệu quả đầu tư trên cùng đơn vị diện tích canh tác, nâng cao mức thu nhập cho nhân dân. Tạo tiền đề phát triển cho các ngành nghề lĩnh vực như du lịch sinh thái, chế biến lâm sản góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động nông nghiệp nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Rà soát 3 loại rừng đảm bảo ổn định diện tích. Đẩy mạnh công tác chuyển giao áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng rừng. Sản xuất nông lâm kết hợp theo hình thức luân canh, xen canh tận dụng quỹ đất. Tạo điều kiện phát triển đa dạng các loại hình liên doanh liên kết sản xuất giữa các hộ gia đình, các trang trại các chủ doanh nghiệp để xúc tiến gắn với tiêu thụ sản phẩm kinh tế đồi rừng.
Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tạo việc làm và nâng cao mức thu nhập của nhân dân là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Tân Sơn từng bước đưa kinh tế đồi rừng trở thành ngành kinh tế chính giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế của huyện.
Tác giả bài viết: Phòng TN và MT huyện Tân Sơn