Kỳ II: Để nâng cao giá trị trồng rừng
Thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ngành Nông nghiệp, các địa phương đã khai thác tiềm năng thế mạnh phát triển rừng gỗ lớn để rừng ngày càng được bảo vệ, phát triển, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, để tiếp tục chuyển hóa từ rừng gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn và phát triển rừng bền vững cần tiếp tục thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.
Vẫn còn khó khăn
Trồng, chuyển hóa từ rừng gỗ nhỏ sang rừng gỗ lớn mang lại nhiều lợi ích, không chỉ tiết kiệm cây giống, chi phí trồng, chăm sóc mà còn giảm sâu bệnh hại và hạn chế suy thoái đất rừng, bảo vệ môi trường sinh thái. Tỉnh Phú Thọ phấn đấu mỗi năm trồng và duy trì 2.200ha rừng gỗ lớn, từ năm 2025 trở đi duy trì tổng diện tích 20.000ha rừng sản xuất gỗ lớn. Thực tế cho thấy, quá trình triển khai và thực hiện chính sách chuyển hóa rừng gỗ lớn còn một số khó khăn, hạn chế.
Là một trong những huyện miền núi có diện tích rừng lớn của tỉnh nhưng rừng Hạ Hòa khá nhỏ lẻ, đan xen nhiều chủ rừng, nhiều loại rừng với nhau. Do đó có hộ muốn chuyển đổi rừng gỗ lớn nhưng không đủ điều kiện nhận hỗ trợ. Năm 2022, Hạ Hòa được giao chuyển hóa 20ha rừng trồng gỗ lớn, đến hết năm 2022 huyện vẫn chưa thực hiện được. Huyện đã tích cực tìm những hộ gia đình có diện tích trồng rừng lớn để vận động thực hiện chuyển đổi nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn. Ông Phạm Văn Hiến - Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Hạ Hòa cho biết: “Trên địa bàn có nhiều cơ sở chế biến, thiếu nguồn nguyên liệu tại chỗ nên gây khó khăn cho chuyển hóa. Cùng với đó, trồng rừng gỗ lớn có chu kỳ kinh doanh dài, đòi hỏi phải có vốn, trong khi điều kiện kinh tế của các hộ dân còn khó khăn. Do đó, chủ rừng thường trồng rừng gỗ nhỏ với chu kỳ ngắn từ năm đến bảy năm do có nguồn thu nhanh hơn để trang trải cuộc sống, hoặc có thể sớm quay vòng đầu tư tiếp”.
Một nguyên nhân nữa đặt ra là quỹ đất để trồng rừng gỗ lớn đan xen giữa các chủ rừng là Nhà nước và hộ gia đình. Đa số các hộ gia đình có diện tích rừng nhỏ, manh mún. Số lượng đơn vị sản xuất, kinh doanh chế biến lâm sản trên địa bàn tỉnh tương đối lớn, tuy nhiên, nhu cầu của các đơn vị này chủ yếu là chế biến thô như băm dăm, ván xẻ, ván thanh, ván bóc nên chủ yếu cần nguyên liệu gỗ nhỏ; chưa hình thành các vùng nguyên liệu gỗ lớn tập trung có diện tích đủ lớn nhằm tạo điều kiện cho việc liên doanh, liên kết đầu tư cơ sở hạ tầng. Trên địa bàn chưa có nhiều mô hình rừng trồng kinh doanh gỗ lớn điển hình để làm cơ sở minh chứng cho bài toán kinh tế thực so sánh giữa hai loại rừng. Những yếu tố này cũng tác động lớn vào công cuộc chuyển hóa rừng trồng của tỉnh.
Một thực tế hiện nay, lực lượng kiểm lâm ở các địa phương khá mỏng, chưa đủ điều kiện thường xuyên bám sát từng gia đình, hợp tác xã để vận động, hỗ trợ, giám sát người dân thực hiện chuyển hóa rừng gỗ lớn. Lý giải về nguyên nhân này, ông Đỗ Lương Bằng- Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Đoan Hùng cho biết: “Huyện Đoan Hùng được giao quản lý gần 13.000ha rừng nhưng chỉ có năm cán bộ kiểm lâm phụ trách địa bàn. Tính bình quân mỗi cán bộ kiểm lâm địa bàn phải phụ trách khoảng 2.500ha rừng. Khối lượng công việc quá lớn, cán bộ ít là trở ngại khiến công việc kiểm tra, giám sát không thường xuyên, có trường hợp qua vận động người dân đã nhất trí đăng ký chuyển hóa rừng gỗ lớn, nhưng chỉ vài ngày sau thấy gỗ được giá người dân sẵn sàng cắt bán”.
Là một trong những hộ có diện tích rừng lớn, ông Nguyễn Văn Sơn ở xã Cự Thắng, huyện Thanh Sơn chia sẻ: Ở thời điểm hiện tại, việc nhân rộng những mô hình hiệu quả có ý nghĩa quan trọng để nâng diện tích rừng gỗ lớn, giúp người dân hưởng lợi từ rừng, từ đó dần nâng chất lượng gỗ rừng theo từng năm. Do đó, các cơ quan chức năng cùng các địa phương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về hiệu quả kinh tế, môi trường cũng như hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng, hướng dẫn kỹ thuật trồng, chăm sóc, hỗ trợ về cây giống cho người dân.
Giải pháp đồng bộ
Xác định cây gỗ lớn là sản phẩm lâm nghiệp chủ lực, từng bước giảm diện tích trồng rừng tập trung sản xuất gỗ nhỏ để chuyển hóa sang rừng gỗ lớn. Mục tiêu của ngành lâm nghiệp đến năm 2025 là giữ ổn định độ che phủ rừng 38,8%; thúc đẩy trồng, chuyển hóa đạt 20.000ha rừng cây gỗ lớn, trong đó trồng mới trên 15.000ha, chuyển hóa gần 5.000ha; hỗ trợ cấp chứng chỉ rừng bền vững FSC cho 35.000ha rừng; năng suất rừng trồng đạt 17m3/ha/năm. Gắn với công nghiệp chế biến, xây dựng vùng sản xuất tập trung với doanh nghiệp chế biến sâu sản phẩm gỗ hướng tới xuất khẩu. Từ đó đưa lâm nghiệp thực sự trở thành ngành kinh tế có hiệu quả cao, tạo việc làm, thu nhập cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc miền núi.
Để đạt được mục tiêu này, cần phải thực hiện giải pháp đồng bộ từ khâu quy hoạch vùng trồng phù hợp; thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, doanh nghiệp và huy động mọi nguồn lực xã hội cho phát triển kinh doanh gỗ lớn; các giải pháp kỹ thuật từ khâu chọn tạo giống, trồng, chăm sóc, khai thác, chế biến; chính sách, chủ trương của Nhà nước.
Ông Trần Quang Đông - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh cho biết: “Trong thời gian tới, với chức năng là cơ quan quản lý Nhà nước, Chi cục tiếp tục tăng cường công tác tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển lâm nghiệp nói chung, phát triển rừng gỗ lớn nói riêng. Đặc biệt là chính sách hỗ trợ chuyển hóa rừng kinh doanh gỗ lớn, cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC theo Nghị quyết 22/2021/NQ-HĐND của HĐND tỉnh về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh. Cung cấp thông tin về giống chất lượng cao, tiến bộ kỹ thuật phục vụ sản xuất, cơ sở cung cấp giống uy tín để mọi tầng lớp nhân dân biết, hiểu, thực hiện tốt việc đầu tư kinh doanh gỗ lớn. Vận dụng cơ chế, chính sách đầu tư của Trung ương cho lĩnh vực lâm nghiệp vào điều kiện thực tiễn của tỉnh, đồng thời kịp thời đề xuất với tỉnh ban hành những chính sách hỗ trợ cho phát triển gỗ lớn, nhất là khâu chọn tạo giống, chuyển hóa gỗ lớn”.
Cùng với đó, hỗ trợ, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với các chủ rừng để tạo thành vùng nguyên liệu quy mô lớn, đầu tư trồng rừng gỗ lớn, canh tác bền vững để đạt cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững (FSC) theo phương thức: Doanh nghiệp đầu tư vốn, kỹ thuật, các chủ rừng góp vốn bằng quyền sử dụng đất, khi có sản phẩm khai thác được hưởng quyền lợi theo tỷ lệ góp vốn, hình thành chuỗi giá trị sản phẩm hàng hóa lâm nghiệp, tăng sức cạnh tranh của thị trường. Khuyến khích các doanh nghiệp thiết lập mối liên hệ với hộ trồng rừng nhằm đảm bảo việc cung cấp nguyên liệu ổn định, vùng nguyên liệu được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững FSC,… Quan tâm phát triển cơ sở hạ tầng cho lâm nghiệp nhằm thúc đẩy, hỗ trợ cho sản xuất lâm nghiệp, từ khâu trồng rừng, khai thác, đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, đẩy mạnh nghiên cứu phát triển các giống có năng suất chất lượng cao, lựa chọn các giống có năng suất cao, phù hợp phát triển rừng gỗ lớn với từng điều kiện lập địa nơi trồng. Đẩy mạnh nghiên cứu cơ giới hóa lâm nghiệp vào các khâu trồng, chăm sóc, thu hoạch chế biến lâm sản, xây dựng mô hình canh tác lâm nghiệp ứng dụng công nghệ cao để nâng cao giá trị sản xuất lâm nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát công tác quản lý giống, vật tư trên địa bàn tỉnh đảm bảo nguồn giống, vật tư xuất ra thị trường đảm bảo chất lượng, góp phần nâng cao sản lượng, chất lượng và giá trị rừng.
Với những giải pháp đồng bộ cùng với sự chỉ đạo quyết liệt của các cấp, các ngành, sự hưởng ứng tích cực của người dân, các chủ rừng, hy vọng giá trị sản xuất lâm nghiệp trong giai đoạn tới sẽ được tăng lên, tái cơ cấu lâm nghiệp sẽ bước khởi sắc, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh.