Vài nét về Công ước khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định thư Kyoto
Tại Hội nghị thượng đỉnh của Liên hợp quốc về Môi trường và Phát triển tại Rio de Janeiro, Brazil tháng 6/1992, Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu (UNFCC) đã được 155 nước trên thế giới ký kết tham gia. “Mục tiêu của Công ước là ổn định nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa được sự can thiệp nguy hiểm của con người vào hệ thống khí hậu”.
Nhằm tăng cường cơ sở pháp lý về trách nhiệm thực hiện Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCC), tháng 12/1997 tại Kyoto của Nhật Bản, Hội nghị các Bên lần thứ 3 của (UNFCC) đã thông qua Nghị định thư Kyoto với “Mục tiêu là hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện phát triển bền vững và các nước phát triển thực hiện cam kết giảm phát khí thải các bon dioxit (CO2) và các chất khí gây hiệu ứng nhà kính”. Nghị định thư Kyoto đã được 159 quốc gia ký kết và đã được Nga ký kết vào 3/1999. Nghị định thư qui định, trong giai đoạn đầu có hiệu lực, từ năm 2008 đến năm 2012, Nga cũng như các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm lượng khí thải CO2 xuống mức 5,2% như năm 1990 bằng việc giảm sử dụng than, khí đốt, dầu mỏ chuyển sang sử dụng năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sức gió.
Để có hiệu lực, Nghị định thư Kyoto cần phải được tối thiểu 55 nước, chịu trách nhiệm về 55% khí thải toàn cầu, chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển phê chuẩn nhưng cho đến thời điểm ngày 30/9/2004 khi chính phủ Nga thông qua dự luật ‘’Phê chuẩn Nghị định thư Kyoto trong khuôn khổ Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu”, các nước đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto (124 nước đã phê chuẩn) mới chỉ chịu trách nhiệm 44,2% lượng khí thải toàn cầu. Việc Nga phê chuẩn văn kiện này có ý nghĩa quan trọng vì nó làm cho Nghị định thư Kyoto có hiệu lực vào ngày 16/2/2005.
Hiện chỉ bốn nước công nghiệp không phê chuẩn Nghị định thư này là Mỹ, Ôxtrâylia, Liechtenstein và Monaco, trong đó hai nước Mỹ và Ôxtrâylia chiếm hơn 1/3 tổng lượng khí nhà kính ở nước nước phát triển.
Mỹ đã ký hiệp định khung năm 1997. Tuy nhiên, ngay sau khi đắc cử tổng thống Mỹ năm 2001, ông Bush thông báo Mỹ sẽ không phê chuẩn hiệp định thư do chi phí từ những cam kết nghị định thư quá cao đối với nước này vốn phụ thuộc vào dầu, khí gas và than đá những chất thường thải ra CO2 gây hiệu ứng nhà kính làm nóng lên toàn cầu. Ông Bush cho rằng Nghị định thư Kyoto là không công bằng do chỉ những nước phát triển (trừ những nước đang phát triển nhanh như ấn Độ và Trung Quốc là những nước gây mức độ ô nhiễm cao) phải giảm lượng khí thải. Những nước đang phát triển được hỗ trợ tài chính để giảm ô nhiễm và giải quyết những hậu quả của thay đổi khí hậu. Ngoài ra, Mỹ không đồng ý với nhận định của Nghị định thư Kyoto coi nước này là nước gây ô nhiễm lớn nhất. Trong khi đó, các nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc, ấn Độ và Indonesia cũng ủng hộ Nghị định thư Kyoto song không đặt ra mục tiêu giảm lượng khí thải.
Theo bà Joke Waller Hunter (Tổng Thư ký Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu-UNFCCC), trong tương lai vấn đề thay đổi khí hậu sẽ là vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự toàn cầu. Bà kêu gọi Mỹ và các nước có lượng khí thải lớn song không ủng hộ nghị định thư Kyoto tham gia cuộc chiến toàn thế giới chống lại việc nóng lên toàn cầu. Theo nghiên cứu mới nhất, khí CO2 và các khí thải khác do con người thải ra sẽ làm nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1,4 đến 5,8 độ C vào cuối thế kỷ này, bà Waller-Hunter cảnh báo. Nhiệt độ toàn cầu gia tăng sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố khác của thời tiết, sự thay đổi mùa, tài nguyên nước, hệ sinh thái... .Trong khi đó, dự tính ở các nước đang phát triển không cam kết giảm lượng khí thải sẽ bị đối mặt với tình trạng ô nhiễm gia tăng.
Tính đến 6/2007 đã có 175 quốc gia ký kết Nghị định thư Kyoto, tuy nhiên việc thực hiện các cam kết của các quốc gia, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc, ấn Độ và Indonesia là cả một vấn đề hết sức phức tạp vì ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng phát triển của các quốc gia đó. Trong khi đó biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng. Báo cáo của ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC, thuộc Liên Hiệp Quốc) công bố ngày 17/11/2007 cảnh báo tình trạng Trái đất nóng lên là “rõ ràng” và “các nước nghèo sẽ chịu ảnh hưởng trước tiên”. Nội dung chính của báo cáo đó là:
“Hành động của con người là nguyên nhân chính gây nên tình trạng thay đổi khí hậu; Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình trên Trái đất có thể tăng từ 1,1-6,4 0C so với mức của giai đoạn 1980-1990; Mực nước biển sẽ tăng 18-59cm; 11/12 năm qua là những năm nóng nhất kể từ năm 1850; Khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng 70% từ năm 1970-2004; Thay đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng tới những nước nghèo trước, nhưng có thể cảm nhận ở khắp mọi nơi; Đến năm 2020, khoảng 75-250 triệu người ở châu Phi sẽ thiếu nước ngọt; Các đô thị ở châu á sẽ chịu cảnh ngập lụt; Cư dân ở các đô thị lớn của châu á sẽ có nguy cơ chịu cảnh lụt lội do nước sông hồ dâng cao; Bắc Mỹ sẽ chịu những đợt nóng dài hơn với nhiệt độ cao hơn, cạnh tranh về nguồn nước sẽ căng thẳng hơn; Khoảng 20-30% các loài được biết đến nay có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1,5-2,5 0C; Sản lượng mùa màng từ loài cây trồng phụ thuộc vào nước mưa sẽ chỉ còn một nửa; Mất an ninh lương thực nghiêm trọng hơn ở châu Phi; Thời tiết khắc nghiệt sẽ thường xuyên hơn. Bão nhiệt đới mạnh hơn, hỏa hoạn, hạn hán và dịch bệnh nhiều hơn; Ngay cả khi lượng khí CO2 trong khí quyển được duy trì ở mức hiện nay, mực nước biển sẽ tiếp tục tăng khoảng 0,4-1,4m, vì nước biển vẫn ấm lên và lan rộng”.
Ngày 16/01/2007, một lãnh đạo cấp cao chương trình Thoả thuận khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc (UNFCCC) đã đề xuất triệu tập Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu để lên kế hoạch hành động giải quyết vấn đề cắt giảm khí thải trong tương lai. Thư ký điều hành UNFCCC, ông Yvo De Boer, cho rằng thay đổi khí hậu ảnh hưởng tới an ninh năng lượng, các vấn đề kinh tế và phát triển, do đó nó cần phải được xem như một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chính phủ các quốc gia. Theo nhận định của ông Boer, mặc dù các nước phát thải nhiều nhất đã có một số nỗ lực tích cực nhưng vấn đề thay đổi khí hậu đã tới mức trở thành gánh nặng cho các quốc gia đang phát triển do gây ra tình trạng hạn hán kéo dài và phá hủy nặng nề cơ sở hạ tầng của những nước này. Ông cho rằng trong kế hoạch tiếp theo Nghị định thư Kyoto của LHQ (sẽ hết hiệu lực vào năm 2012) cần xem xét đến quyền lợi của các quốc gia đang phát triển.
Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu đã chính thức khai mạc tại Bali, Indonesia vơi sự góp mặt của 189 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ ngày 3-14/12/2007. Đây là hội nghị thượng đỉnh thường niên mới nhất về biến đổi khí hậu do Liên Hợp quốc tổ chức và là hội nghị quan trọng nhất kể từ đàm phán Kyoto năm 1997.
Hội thảo tập trung thảo luận các vấn đề: trách nhiệm của các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển trong vấn đề biến đổi khí hậu, thực hiện mục tiêu cắt giảm khí nhà kính (dự kiến là 30% vào năm 2020 và 60-80% vào năm 2050 đối với các nước phát triển), hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước nghèo thích ứng với biến đổi khí hậu và xem xét việc xây dựng một cơ chế chung.
Ashok Sinha, đại diện của nhóm Ngăn chặn sự hỗn loạn biến đổi khí hậu cho rằng: “Việc xây dựng các thoả thuận mới về biến đổi khí hậu sẽ mất nhiều thời gian, và nếu năm tới mới thực hiện đã là quá muộn. Các chính phủ cần nhận thấy rằng 20C là ngưỡng tăng nhiệt độ tới hạn được đưa ra để điều chỉnh các chính sách và pháp luật về việc giảm thiểu CO2 trên toàn thế giới”.
Tác động tới lượng phát thải khí nhà kính từ các hoạt động thương mại và vận tải du lịch là một trong 8 điểm mà các nhà đàm phán Anh và Châu Âu muốn hướng tới ở hội nghị này để đạt được sự thống nhất về một hiệp ước toàn cầu thay thế cho nghị định thư Kyoto sắp mãn hạn vào năm 2012. Mặc dù các quan chức Mỹ nói rằng họ sẵn sàng ký vào bất kì hiệp ước nào được áp dụng cho tất cả các quốc gia nhưng thực tế cho thấy chưa thể chắc chắn rằng Mỹ chỉ ký cam kết tại Bali với những nội dung chung nhất.
Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển mà đại diện là 5 quốc gia lớn Trung Quốc, ấn Độ, Brazil, Indonesia và Mexico nhấn mạnh rằng các quốc gia phát triển phải chịu trách nhiệm chính cho vấn đề biến đổi khí hậu và cần chỉ ra phương hướng, các ngưỡng cũng như thời hạn cụ thể nhằm giảm sự phát thải và những quốc gia này sẽ không đồng ý bất kì điều gì gây nguy hại đến sự phát triển kinh tế của họ.
Hội nghị này cũng hướng đến tìm giải pháp để ngăn chặn nạn phá rừng - được cho là hoạt động phát thải nhiều khí nhà kính hơn là các hoạt động giao thông vận tải toàn cầu. Các dự án trồng rừng đã được cho phép thực hiện trong nghị định thư Kyoto, song câu hỏi về ngăn chặn nạn phá rừng vẫn chưa có lời giải đáp.
Một tiểu điểm khác được đề cập đến là các nước giàu sẽ chi trả bao nhiêu để giúp các quốc gia đang phát triển đối phó với các tác động biến đổi khí hậu. Báo cáo cuối tháng trước chỉ ra rằng hàng trăm triệu bảng Anh như cam kết năm 2001 vẫn chưa được thực hiện. Tại hội nghị Bali, hơn 200 nhà khoa học đã ký vào bản thông cáo để trình lên LHQ kêu gọi các hành động cấp bách cắt giảm việc phát thải khí nhà kính. Thông cáo nêu rõ, loài người chỉ còn một cơ hội trong vòng 10 -15 năm tới lượng phát thải khí nhà kính sẽ phải đạt mức tối đa và sau đó giảm dần để đạt mục tiêu giảm 50% lượng khí phát thải tới năm 2050.
Bản thông cáo cũng đề xuất thời gian tổ chức vòng đàm phán tiếp theo để xây dựng các thỏa thuận mới về khí hậu toàn cầu (trong khuôn khổ công ước khung LHQ về biến đổi khí hậu) bắt đầu từ tháng 12/2007 và hoàn thành vào năm 2009. Thiết chế mới này cần phải hạn chế nhiệt độ toàn cầu tăng không quá 20C so với nhiệt độ trái đất thời kỳ tiền công nghiệp - giới hạn mà EU và một số nước hiện đang áp dụng.
Nhằm tăng cường cơ sở pháp lý về trách nhiệm thực hiện Công ước khung của Liên hiệp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCC), tháng 12/1997 tại Kyoto của Nhật Bản, Hội nghị các Bên lần thứ 3 của (UNFCC) đã thông qua Nghị định thư Kyoto với “Mục tiêu là hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện phát triển bền vững và các nước phát triển thực hiện cam kết giảm phát khí thải các bon dioxit (CO2) và các chất khí gây hiệu ứng nhà kính”. Nghị định thư Kyoto đã được 159 quốc gia ký kết và đã được Nga ký kết vào 3/1999. Nghị định thư qui định, trong giai đoạn đầu có hiệu lực, từ năm 2008 đến năm 2012, Nga cũng như các nước công nghiệp phát triển phải cắt giảm lượng khí thải CO2 xuống mức 5,2% như năm 1990 bằng việc giảm sử dụng than, khí đốt, dầu mỏ chuyển sang sử dụng năng lượng sạch như năng lượng mặt trời, sức gió.
Để có hiệu lực, Nghị định thư Kyoto cần phải được tối thiểu 55 nước, chịu trách nhiệm về 55% khí thải toàn cầu, chủ yếu là các nước công nghiệp phát triển phê chuẩn nhưng cho đến thời điểm ngày 30/9/2004 khi chính phủ Nga thông qua dự luật ‘’Phê chuẩn Nghị định thư Kyoto trong khuôn khổ Công ước khung của Liên Hợp Quốc về thay đổi khí hậu”, các nước đã phê chuẩn Nghị định thư Kyoto (124 nước đã phê chuẩn) mới chỉ chịu trách nhiệm 44,2% lượng khí thải toàn cầu. Việc Nga phê chuẩn văn kiện này có ý nghĩa quan trọng vì nó làm cho Nghị định thư Kyoto có hiệu lực vào ngày 16/2/2005.
Hiện chỉ bốn nước công nghiệp không phê chuẩn Nghị định thư này là Mỹ, Ôxtrâylia, Liechtenstein và Monaco, trong đó hai nước Mỹ và Ôxtrâylia chiếm hơn 1/3 tổng lượng khí nhà kính ở nước nước phát triển.
Mỹ đã ký hiệp định khung năm 1997. Tuy nhiên, ngay sau khi đắc cử tổng thống Mỹ năm 2001, ông Bush thông báo Mỹ sẽ không phê chuẩn hiệp định thư do chi phí từ những cam kết nghị định thư quá cao đối với nước này vốn phụ thuộc vào dầu, khí gas và than đá những chất thường thải ra CO2 gây hiệu ứng nhà kính làm nóng lên toàn cầu. Ông Bush cho rằng Nghị định thư Kyoto là không công bằng do chỉ những nước phát triển (trừ những nước đang phát triển nhanh như ấn Độ và Trung Quốc là những nước gây mức độ ô nhiễm cao) phải giảm lượng khí thải. Những nước đang phát triển được hỗ trợ tài chính để giảm ô nhiễm và giải quyết những hậu quả của thay đổi khí hậu. Ngoài ra, Mỹ không đồng ý với nhận định của Nghị định thư Kyoto coi nước này là nước gây ô nhiễm lớn nhất. Trong khi đó, các nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc, ấn Độ và Indonesia cũng ủng hộ Nghị định thư Kyoto song không đặt ra mục tiêu giảm lượng khí thải.
Theo bà Joke Waller Hunter (Tổng Thư ký Ban thư ký Công ước khung của Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu-UNFCCC), trong tương lai vấn đề thay đổi khí hậu sẽ là vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự toàn cầu. Bà kêu gọi Mỹ và các nước có lượng khí thải lớn song không ủng hộ nghị định thư Kyoto tham gia cuộc chiến toàn thế giới chống lại việc nóng lên toàn cầu. Theo nghiên cứu mới nhất, khí CO2 và các khí thải khác do con người thải ra sẽ làm nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1,4 đến 5,8 độ C vào cuối thế kỷ này, bà Waller-Hunter cảnh báo. Nhiệt độ toàn cầu gia tăng sẽ ảnh hưởng đến các yếu tố khác của thời tiết, sự thay đổi mùa, tài nguyên nước, hệ sinh thái... .Trong khi đó, dự tính ở các nước đang phát triển không cam kết giảm lượng khí thải sẽ bị đối mặt với tình trạng ô nhiễm gia tăng.
Tính đến 6/2007 đã có 175 quốc gia ký kết Nghị định thư Kyoto, tuy nhiên việc thực hiện các cam kết của các quốc gia, đặc biệt là các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc, ấn Độ và Indonesia là cả một vấn đề hết sức phức tạp vì ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng phát triển của các quốc gia đó. Trong khi đó biến đổi khí hậu toàn cầu vẫn tiếp tục có chiều hướng gia tăng. Báo cáo của ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC, thuộc Liên Hiệp Quốc) công bố ngày 17/11/2007 cảnh báo tình trạng Trái đất nóng lên là “rõ ràng” và “các nước nghèo sẽ chịu ảnh hưởng trước tiên”. Nội dung chính của báo cáo đó là:
“Hành động của con người là nguyên nhân chính gây nên tình trạng thay đổi khí hậu; Đến năm 2100, nhiệt độ trung bình trên Trái đất có thể tăng từ 1,1-6,4 0C so với mức của giai đoạn 1980-1990; Mực nước biển sẽ tăng 18-59cm; 11/12 năm qua là những năm nóng nhất kể từ năm 1850; Khí thải gây hiệu ứng nhà kính tăng 70% từ năm 1970-2004; Thay đổi khí hậu sẽ ảnh hưởng tới những nước nghèo trước, nhưng có thể cảm nhận ở khắp mọi nơi; Đến năm 2020, khoảng 75-250 triệu người ở châu Phi sẽ thiếu nước ngọt; Các đô thị ở châu á sẽ chịu cảnh ngập lụt; Cư dân ở các đô thị lớn của châu á sẽ có nguy cơ chịu cảnh lụt lội do nước sông hồ dâng cao; Bắc Mỹ sẽ chịu những đợt nóng dài hơn với nhiệt độ cao hơn, cạnh tranh về nguồn nước sẽ căng thẳng hơn; Khoảng 20-30% các loài được biết đến nay có nguy cơ tuyệt chủng nếu nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng 1,5-2,5 0C; Sản lượng mùa màng từ loài cây trồng phụ thuộc vào nước mưa sẽ chỉ còn một nửa; Mất an ninh lương thực nghiêm trọng hơn ở châu Phi; Thời tiết khắc nghiệt sẽ thường xuyên hơn. Bão nhiệt đới mạnh hơn, hỏa hoạn, hạn hán và dịch bệnh nhiều hơn; Ngay cả khi lượng khí CO2 trong khí quyển được duy trì ở mức hiện nay, mực nước biển sẽ tiếp tục tăng khoảng 0,4-1,4m, vì nước biển vẫn ấm lên và lan rộng”.
Ngày 16/01/2007, một lãnh đạo cấp cao chương trình Thoả thuận khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc (UNFCCC) đã đề xuất triệu tập Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu để lên kế hoạch hành động giải quyết vấn đề cắt giảm khí thải trong tương lai. Thư ký điều hành UNFCCC, ông Yvo De Boer, cho rằng thay đổi khí hậu ảnh hưởng tới an ninh năng lượng, các vấn đề kinh tế và phát triển, do đó nó cần phải được xem như một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu của chính phủ các quốc gia. Theo nhận định của ông Boer, mặc dù các nước phát thải nhiều nhất đã có một số nỗ lực tích cực nhưng vấn đề thay đổi khí hậu đã tới mức trở thành gánh nặng cho các quốc gia đang phát triển do gây ra tình trạng hạn hán kéo dài và phá hủy nặng nề cơ sở hạ tầng của những nước này. Ông cho rằng trong kế hoạch tiếp theo Nghị định thư Kyoto của LHQ (sẽ hết hiệu lực vào năm 2012) cần xem xét đến quyền lợi của các quốc gia đang phát triển.
Hội nghị thượng đỉnh về biến đổi khí hậu đã chính thức khai mạc tại Bali, Indonesia vơi sự góp mặt của 189 quốc gia trên thế giới, kéo dài từ ngày 3-14/12/2007. Đây là hội nghị thượng đỉnh thường niên mới nhất về biến đổi khí hậu do Liên Hợp quốc tổ chức và là hội nghị quan trọng nhất kể từ đàm phán Kyoto năm 1997.
Hội thảo tập trung thảo luận các vấn đề: trách nhiệm của các quốc gia, đặc biệt là các nước phát triển trong vấn đề biến đổi khí hậu, thực hiện mục tiêu cắt giảm khí nhà kính (dự kiến là 30% vào năm 2020 và 60-80% vào năm 2050 đối với các nước phát triển), hỗ trợ các nước đang phát triển và các nước nghèo thích ứng với biến đổi khí hậu và xem xét việc xây dựng một cơ chế chung.
Ashok Sinha, đại diện của nhóm Ngăn chặn sự hỗn loạn biến đổi khí hậu cho rằng: “Việc xây dựng các thoả thuận mới về biến đổi khí hậu sẽ mất nhiều thời gian, và nếu năm tới mới thực hiện đã là quá muộn. Các chính phủ cần nhận thấy rằng 20C là ngưỡng tăng nhiệt độ tới hạn được đưa ra để điều chỉnh các chính sách và pháp luật về việc giảm thiểu CO2 trên toàn thế giới”.
Tác động tới lượng phát thải khí nhà kính từ các hoạt động thương mại và vận tải du lịch là một trong 8 điểm mà các nhà đàm phán Anh và Châu Âu muốn hướng tới ở hội nghị này để đạt được sự thống nhất về một hiệp ước toàn cầu thay thế cho nghị định thư Kyoto sắp mãn hạn vào năm 2012. Mặc dù các quan chức Mỹ nói rằng họ sẵn sàng ký vào bất kì hiệp ước nào được áp dụng cho tất cả các quốc gia nhưng thực tế cho thấy chưa thể chắc chắn rằng Mỹ chỉ ký cam kết tại Bali với những nội dung chung nhất.
Trong khi đó, các quốc gia đang phát triển mà đại diện là 5 quốc gia lớn Trung Quốc, ấn Độ, Brazil, Indonesia và Mexico nhấn mạnh rằng các quốc gia phát triển phải chịu trách nhiệm chính cho vấn đề biến đổi khí hậu và cần chỉ ra phương hướng, các ngưỡng cũng như thời hạn cụ thể nhằm giảm sự phát thải và những quốc gia này sẽ không đồng ý bất kì điều gì gây nguy hại đến sự phát triển kinh tế của họ.
Hội nghị này cũng hướng đến tìm giải pháp để ngăn chặn nạn phá rừng - được cho là hoạt động phát thải nhiều khí nhà kính hơn là các hoạt động giao thông vận tải toàn cầu. Các dự án trồng rừng đã được cho phép thực hiện trong nghị định thư Kyoto, song câu hỏi về ngăn chặn nạn phá rừng vẫn chưa có lời giải đáp.
Một tiểu điểm khác được đề cập đến là các nước giàu sẽ chi trả bao nhiêu để giúp các quốc gia đang phát triển đối phó với các tác động biến đổi khí hậu. Báo cáo cuối tháng trước chỉ ra rằng hàng trăm triệu bảng Anh như cam kết năm 2001 vẫn chưa được thực hiện. Tại hội nghị Bali, hơn 200 nhà khoa học đã ký vào bản thông cáo để trình lên LHQ kêu gọi các hành động cấp bách cắt giảm việc phát thải khí nhà kính. Thông cáo nêu rõ, loài người chỉ còn một cơ hội trong vòng 10 -15 năm tới lượng phát thải khí nhà kính sẽ phải đạt mức tối đa và sau đó giảm dần để đạt mục tiêu giảm 50% lượng khí phát thải tới năm 2050.
Bản thông cáo cũng đề xuất thời gian tổ chức vòng đàm phán tiếp theo để xây dựng các thỏa thuận mới về khí hậu toàn cầu (trong khuôn khổ công ước khung LHQ về biến đổi khí hậu) bắt đầu từ tháng 12/2007 và hoàn thành vào năm 2009. Thiết chế mới này cần phải hạn chế nhiệt độ toàn cầu tăng không quá 20C so với nhiệt độ trái đất thời kỳ tiền công nghiệp - giới hạn mà EU và một số nước hiện đang áp dụng.
Tác giả bài viết: Hoàng Như Lô - Trưởng phòng Quản lý Khoáng sản