Về sản xuất
Nông nghiệp: Sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào gieo trồng lúa mùa, chăm sóc lúa hè thu và hoa màu. Tính đến ngày 15/7, cả nước đã gieo cấy được 997,1 nghìn ha lúa mùa, bằng 91,5% cùng kỳ năm trước, trong đó các địa phương phía Bắc gieo cấy 850,6 nghìn ha, bằng 91,8%, riêng vùng đồng bằng sông Hồng gieo cấy được 408,5 nghìn ha, bằng 90,3%; các địa phương phía Nam gieo cấy 146,5 nghìn ha, bằng 89,4%. Tiến độ gieo cấy lúa mùa năm nay thấp hơn cùng kỳ năm trước, chủ yếu do vụ lúa đông xuân năm 2016 tại các tỉnh phía Bắc thu hoạch chậm và do ảnh hưởng của thời tiết nắng nóng kéo dài, thiếu nước tưới ở các tỉnh phía Nam, nhất là khu vực Tây Nguyên.
Gieo trồng rau màu nhìn chung đạt thấp. Tính đến giữa tháng 7, các địa phương trên cả nước đã gieo trồng được 835 nghìn ha ngô, bằng 91,4% cùng kỳ năm trước; 95 nghìn ha khoai lang, bằng 88,7%; 54,5 nghìn ha đậu tương, bằng 78,8%; 166,4 nghìn ha lạc, bằng 98%; 862,3 nghìn ha rau, đậu, bằng 103,8%.
Thủy sản: Sản lượng thủy sản tháng 7/2016 ước tính đạt 614,3 nghìn tấn, tăng 3,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 433,8 nghìn tấn, tăng 3,7%; tôm đạt 96,3 nghìn tấn, tăng 0,1%. Sản lượng thủy sản nuôi trồng trong tháng ước tính đạt 376,9 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 268 nghìn tấn, tăng 4,1%; tôm đạt 85,8 nghìn tấn, tương đương với cùng kỳ năm trước.
Nuôi cá tra tiếp tục gặp khó khăn do sức mua từ các thị trường tiêu thụ lớn sụt giảm; giá cá tra nguyên liệu giảm mạnh và ở mức thấp, trong khi chi phí thức ăn tăng cao. Sản lượng cá tra trong tháng ước tính đạt 88,5 nghìn tấn, tăng 3,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Đồng Tháp đạt 33 nghìn tấn, tăng 0,8%; Bến Tre đạt 13,3 nghìn tấn, tăng 37,6%.
Nuôi tôm nước lợ vẫn gặp khó khăn do ảnh hưởng của hạn hán, xâm nhập mặn từ những tháng đầu năm. Sản lượng tôm sú trong tháng ước tính đạt 19,9 nghìn tấn, giảm 17,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Cà Mau đạt 6,2 nghìn tấn, giảm 20,5%; Kiên Giang đạt 3,7 nghìn tấn, giảm 24%. Sản lượng tôm thẻ chân trắng ước tính đạt 29,7 nghìn tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó Sóc Trăng đạt 4,9 nghìn tấn, tăng 23,7%; Bến Tre đạt 2,8 nghìn tấn, tăng 51%; Bạc Liêu đạt 1,1 nghìn tấn, giảm 12,5%.
Thời tiết trong tháng tương đối thuận lợi cho hoạt động khai thác thủy sản, cùng với giá xăng dầu giảm đã khuyến khích ngư dân ra khơi bám biển. Sản lượng thủy sản khai thác trong tháng ước tính đạt 237,4 nghìn tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó cá đạt 165,8 nghìn tấn, tăng 2,9%; tôm đạt 10,5 nghìn tấn, tăng 1,0% (Sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 220,3 nghìn tấn, tăng 3,1%, trong đó cá đạt 154,2 nghìn tấn, tăng 3,2%, tôm đạt 9 nghìn tấn, tăng 1,1%).
Tính chung 7 tháng, sản lượng thủy sản ước tính đạt 3745,6 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 1963,3 nghìn tấn, tăng 1,2%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1782,3 nghìn tấn, tăng 3,2% (Sản lượng thủy sản khai thác biển đạt 1679,8 nghìn tấn, tăng 3,4%, trong đó sản lượng cá ngừ đại dương đạt 13 nghìn tấn, tương đương cùng kỳ năm 2015).
Cà phê: Khu vực trồng cà phê ở miền Trung – Tây nguyên của Việt Nam đầu năm nay bị hạn hán nghiêm trọng nhất trong vòng 30 năm, nhưng dự báo đến khoảng tháng 10-11 sẽ có mưa nhiều hơn khoảng 5-15% so với mức trung bình. Mà vụ thu hoạch cà phê rơi vào tháng 10, rộ vào tháng 11. Mưa nhiều sẽ làm cho việc thu hoạch bị chậm lại, và ảnh hưởng tới việc phơi sấy, khiến chất lượng hạt giảm sút. Đồng thời mưa nhiều cũng khiến trái cà phê nhanh rụng, làm tăng tỷ lệ hạt đen, giảm hạt nâu.
Trong khi đó, mới đây Hiệp hội Cà phê Cacao Việt Nam cũng cho biết sản lượng niên vụ 2016/17 của Việt Nam có thể sẽ giảm 20-25% do khô hạn. Con số này đã được điều chỉnh giảm so với mức giảm 30% trong dự báo trước đây, sau khi mùa mưa đến sớm hơn dự kiến – vào giữa tháng 5.
Hạn hán đã ảnh hưởng đến hơn 120.000 ha cà phê và hạt tiêu trong khu vực Tây Nguyên. Trong số đó đã có 496 ha tiêu và 6.500 ha cà phê bị phá hủy. Tuy nhiên, hầu hết các khu vực bị thiệt hại là các khu vực ngoài quy hoạch. Trong số các khu vực bị ảnh hưởng tỉnh Đắk Lắk là tỉnh khó khăn nhất với hơn 60.000 ha cà phê và hạt tiêu bị ảnh hưởng.
Còn theo Văn phòng Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng cà phê của Việt Nam (chủ yếu là Robusta) niên vụ 2016-2017 dự báo giảm 7% xuống 27,3 triệu bao, thấp nhất 4 năm do ảnh hưởng bất lợi của thời tiết khô hạn.
Cũng theo Văn phòng USDA, nhờ nông dân nỗ lực tưới tiêu, bẳng cả nguồn nước từ hồ chứa và nguồn nước ngầm, nên bất chấp khô hạn, thiệt hại của niên vụ 2016-2017 trong thời kỳ cây cà phê ra hoa và kết trái (từ tháng 1 đến đầu tháng 3) được giảm thiểu đáng kể.
Tuy nhiên, sản lượng cà phê của Việt
Thậm chí sản lượng cà phê của Việt Nam năm nay có thể giảm tới 15%, xuống 27,3 triệu bao sẽ khiến xuất khẩu cà phê của Việt Nam giảm 2,1 triệu bao xuống 24,5 triệu trong niên vụ 2016-2017.
Văn phòng USDA ước tính lượng cà phê lưu kho của Việt
Hạt tiêu: Tại tỉnh Đắk Lắk nơi được coi là thủ đô cà phê, đang ngày càng có nhiều nông dân chuyển sang trồng tiêu. Cụ thể, Đắk Lắk có diện tích trồng tiêu lớn nhất ở khu vực Tây Nguyên, tính đến tháng 5, Đắk Lắk có gần 22.000 ha hồ tiêu, vượt 15.000 ha so với diện tích trồng tiêu được quy hoạch của tỉnh đến năm 2015. Tương tự như vậy, các tỉnh Tây Nguyên khác là Gia Lai đã lên kế hoạch để có 6.000 ha hồ tiêu vào năm 2020 nhưng diện tích tiêu hiện nay của tỉnh là hơn 12.000 ha.
Còn theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam, diện tích tiêu của nước ta đã đạt khoảng 100.000ha vào cuối tháng 3/2016, tăng gấp đôi diện tích trồng tiêu được quy hoạch đến năm 2020 bởi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Theo dự báo, vùng trồng tiêu tại các tỉnh Đông
Các chuyên gia cũng cảnh báo rằng, nếu các cơ quan chức năng không có biện pháp để hạn chế sự phát triển của vùng trồng tiêu ngoài quy hoạch thì sự phát triển bền vững của ngành hạt tiêu sẽ bị ảnh hưởng. Hiện nay, nông dân trồng tiêu trên nhiều loại đất, kể cả ở các khu vực không thích hợp cho việc trồng tiêu. Nhiều nông dân cũng đã trồng xen tiêu trong vườn cao su, việc này có thể khiến các cây cao su bị nhiễm phytophthora, một loại nấm, và bị chết. Đồng thời, một số nông dân lạm dụng phân bón và thuốc trừ sâu để tăng năng suất, gây ra sự suy giảm chất lượng hạt tiêu.
Về tiêu thụ:
Hàng Việt chiếm hơn 60% nguồn cung tại các hệ thống bán lẻ
Sau khi một số hệ thống bán lẻ ở Việt Nam như Metro Cash & Carry (Đức) và Big C (Pháp) ở Việt Nam lần lượt bị thâu tóm bởi các tập đoàn Thái Lan, mối lo ngại về việc hàng nhập khẩu sẽ chiếm lĩnh hoàn toàn nguồn hàng của các cơ sở bán lẻ, thậm chí đánh bật hàng nội địa ra khỏi chính thị trường bán lẻ Việt Nam trong tương lai gần thường được nhắc tới thời gian gần đây.
Tuy nhiên, các chuyên gia đánh giá, sự lo ngại này ít nhiều vượt quá mức cần thiết bới theo khảo sát mới đây nhất từ 100 doanh nghiệp có hoạt động bán lẻ tại Việt Nam, trừ các nguồn khác không xác định (khoảng 5%), nguồn hàng nội địa hiện chiếm khoảng hơn 60% tổng nguồn hàng của các doanh nghiệp này, hàng nhập khẩu chỉ chiếm khoảng 32%.
Có thể thấy hàng nội địa vẫn đang chiếm tỷ trọng đa số trong tổng nguồn hàng của doanh nghiệp, cao gấp đôi so với nguồn hàng nhập khẩu.
Đánh giá được đưa ra tại dự thảo Báo cáo nghiên cứu “Rủi ro của Ngành bán lẻ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập - Hiện trạng và Đề xuất chính sách” do Trung tâm WTO và Hội nhập thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) phối hợp với Hiệp hội Bán lẻ Việt Nam (AVR) thực hiện.
Mặc dù vậy, nếu hàng Việt Nam không được cải thiện về chất lượng, không tận dụng được các lợi thế về khoảng cách, không bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, không thu hút được người tiêu dùng Việt thì bị hàng nhập khẩu chiếm mất thị phần là có, nhưng đó là do người tiêu dùng quyết định, hoàn toàn không phải vì số lượng các nhà bán lẻ nước ngoài trên thị trường cũng như hành động của họ.