Độ cao trung bình so với mặt nước biển 150 - 200 m và thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Đặc điểm thổ nhưỡng chủ yếu mang tính chất đất đỏ vàng có tầng dày canh tác phù hợp cho phát triển cây chè, cây lâm nghiệp và cây lương thực, một phần diện tích đất tích tụ ở các thung lũng, ven sông suối phù hợp gieo cấy lúa và rau màu. Là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ, đặc điểm khí hậu của huyện cũng mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, có 2 mùa rõ rệt. Nhìn chung, khí hậu phù hợp cho cây trồng sinh trưởng và phát triển, nhưng lốc xoáy, lũ quét, sạt lở núi thường xảy ra vào mùa mưa, dịch bệnh, hạn hán, rét đậm, rét hại thường xảy ra vào mùa khô đã gây ra rất nhiều khó khăn đối với đời sống nhân dân nói chung và sản xuất nông lâm nghiệp nói riêng.
Thực trạng tài nguyên đất đai trên địa bàn huyện Tân Sơn rất thuận lợi cho phát triển kinh tế đồi rừng. Đối với đất lâm nghiệp, diện tích rừng và đất rừng là 61.089 ha, độ che phủ của rừng đạt 72%. Trong đó: Rừng đặc dụng 15.048 ha thuộc Vườn Quốc gia Xuân Sơn, rừng phòng hộ là 9.450,3 ha, rừng sản xuất là 36.590,7 ha. Đối với đất sản xuất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây lâu năm là 2.845,58 ha, đã tiến hành trồng chè 2.666,4 ha, trồng sơn là 34,5 ha, còn lại là 144,68 ha trồng cây ăn quả.
Trong những năm qua, kinh tế đồi rừng đã mang lại cho huyện nguồn lợi nhuận đáng kể. Theo số liệu điều tra thì đối với rừng trồng tập trung: Năng suất rừng trồng đạt bình quân 90 m3/ha/chu kỳ (7 - 8 năm), tăng 30 m3/ha/chu kỳ so với năm 2002, trong đó của Công ty lâm nghiệp đạt 100 m3/ha/chu kỳ, của các hộ gia đình đạt 65 m3/ha/chu kỳ. Sản lượng gỗ khai thác đạt 72.000 m3, sản lượng củi đạt 10.800 Ste, giá trị khai thác đạt 26.000 triệu đồng. Giá trị sản phẩm rừng trồng bình quân đạt 32,5 triệu đồng/ha/chu kỳ (8 năm). Đối với các sản phẩm lâm sản khác: Sản lượng khai thác tre, nứa, luồng hàng năm đạt 2,5 triệu cây, lá cọ đạt 0,62 triệu tàu, măng đạt 35 tấn, song mây đạt 12 tấn, ngoài ra nấm, mộc nhĩ, cây thuốc nam ,…đạt 5,5 - 6 tấn. Tổng giá trị thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ hàng năm ước đạt 6 - 7 tỷ đồng. Đối với cây chè: Năng suất bình quân năm 2007 đạt 71,8 tạ/ha, tăng 11 tạ/ha so với năm 2005, khu vực liên doanh đạt 117,9 tạ/ha, khu vực nông thôn chỉ đạt 42,9 tạ/ha, hàng năm tăng không đáng kể. Sản lượng đạt 17.366 tấn, khu vực nông thôn đạt 6.070 tấn. Giá trị sản phẩm đạt 26.004 triệu đồng, khu vực nông thôn đạt 9.103,5 triệu đồng. Giá trị sản phẩm bình quân đạt 10,76 triệu đồng/ha/năm. Đối với cây Sơn: năng suất 3,1 tạ/ha, sản lượng 9,9 tấn, giá trị sản xuất đạt 89,1 triệu đồng, giá trị sản phẩm bình quân đạt 2,8 triệu đồng/ha/năm. Với cây ăn quả thì sản lượng đạt 1.718,2 tấn, giá trị sản xuất năm 2007 đạt 6,95 tỷ đồng.
Xuất phát từ các đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng sản xuất kinh tế đồi rừng của huyện cho thấy: Lợi thế về diện tích đất đồi rừng, điều kiện thời tiết khí hậu và đặc điểm thổ nhưỡng phù hợp để phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp lâu năm và các cây lâu năm có giá trị kinh tế cao. Nguồn lao động khu vực nông thôn dồi dào, có trình độ phù hợp với nghề trồng rừng, trồng chè, sơn, cây ăn quả,… có mong muốn được lao động, sản xuất phát triển kinh tế và làm giàu từ đất đồi rừng của mình. Các Công ty lâm nghiệp, Xí nghiệp chè đóng trên địa bàn huyện đều sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có công nghệ, kỹ thuật cao trong khu vực là yếu tố thuận lợi để liên doanh, liên kết chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất và tiêu thụ sản phẩm kinh tế đồi rừng.
Chính sách đồi với đồng bào dân tộc miền núi và chính sách đối với phát triển cây lâm nghiệp, cây chè nói riêng ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư hỗ trợ. Tuy nhiên, nền kinh tế còn chưa phát triển, giá trị sản xuất đạt rất thấp, cơ cấu giá trị giữa các lĩnh vực, các ngành chưa hợp lý. Nguồn thu nhập chủ yếu của nhân dân là từ sản xuất nông, lâm nghiệp nhưng chủ yếu từ sản xuất cây lương thực, nguồn thu nhập từ đồi rừng bình quân còn quá thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và nguồn lao động. Do vậy, trong khi nguồn lực và trình độ của nhân dân chưa đảm bảo để phát triển các ngành nghề dịch vụ toàn diện và bền vững thì việc xác định chiến lược đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tiến tới làm giàu trên đất đồi rừng là hướng đi đúng, phù hợp với điều kiện và nguồn lực của địa phương.
Trên cơ sở các căn cứ pháp lý, những lợi thế về phát triển kinh tế đồi rừng và yêu cầu đặt ra đối với phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn từ nay đến 2015 khẳng định: Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tạo ra việc làm và nâng cao mức thu nhập của nhân dân là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Thực trạng tài nguyên đất đai trên địa bàn huyện Tân Sơn rất thuận lợi cho phát triển kinh tế đồi rừng. Đối với đất lâm nghiệp, diện tích rừng và đất rừng là 61.089 ha, độ che phủ của rừng đạt 72%. Trong đó: Rừng đặc dụng 15.048 ha thuộc Vườn Quốc gia Xuân Sơn, rừng phòng hộ là 9.450,3 ha, rừng sản xuất là 36.590,7 ha. Đối với đất sản xuất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây lâu năm là 2.845,58 ha, đã tiến hành trồng chè 2.666,4 ha, trồng sơn là 34,5 ha, còn lại là 144,68 ha trồng cây ăn quả.
Trong những năm qua, kinh tế đồi rừng đã mang lại cho huyện nguồn lợi nhuận đáng kể. Theo số liệu điều tra thì đối với rừng trồng tập trung: Năng suất rừng trồng đạt bình quân 90 m3/ha/chu kỳ (7 - 8 năm), tăng 30 m3/ha/chu kỳ so với năm 2002, trong đó của Công ty lâm nghiệp đạt 100 m3/ha/chu kỳ, của các hộ gia đình đạt 65 m3/ha/chu kỳ. Sản lượng gỗ khai thác đạt 72.000 m3, sản lượng củi đạt 10.800 Ste, giá trị khai thác đạt 26.000 triệu đồng. Giá trị sản phẩm rừng trồng bình quân đạt 32,5 triệu đồng/ha/chu kỳ (8 năm). Đối với các sản phẩm lâm sản khác: Sản lượng khai thác tre, nứa, luồng hàng năm đạt 2,5 triệu cây, lá cọ đạt 0,62 triệu tàu, măng đạt 35 tấn, song mây đạt 12 tấn, ngoài ra nấm, mộc nhĩ, cây thuốc nam ,…đạt 5,5 - 6 tấn. Tổng giá trị thu nhập từ lâm sản ngoài gỗ hàng năm ước đạt 6 - 7 tỷ đồng. Đối với cây chè: Năng suất bình quân năm 2007 đạt 71,8 tạ/ha, tăng 11 tạ/ha so với năm 2005, khu vực liên doanh đạt 117,9 tạ/ha, khu vực nông thôn chỉ đạt 42,9 tạ/ha, hàng năm tăng không đáng kể. Sản lượng đạt 17.366 tấn, khu vực nông thôn đạt 6.070 tấn. Giá trị sản phẩm đạt 26.004 triệu đồng, khu vực nông thôn đạt 9.103,5 triệu đồng. Giá trị sản phẩm bình quân đạt 10,76 triệu đồng/ha/năm. Đối với cây Sơn: năng suất 3,1 tạ/ha, sản lượng 9,9 tấn, giá trị sản xuất đạt 89,1 triệu đồng, giá trị sản phẩm bình quân đạt 2,8 triệu đồng/ha/năm. Với cây ăn quả thì sản lượng đạt 1.718,2 tấn, giá trị sản xuất năm 2007 đạt 6,95 tỷ đồng.
Xuất phát từ các đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và thực trạng sản xuất kinh tế đồi rừng của huyện cho thấy: Lợi thế về diện tích đất đồi rừng, điều kiện thời tiết khí hậu và đặc điểm thổ nhưỡng phù hợp để phát triển cây lâm nghiệp, cây công nghiệp lâu năm và các cây lâu năm có giá trị kinh tế cao. Nguồn lao động khu vực nông thôn dồi dào, có trình độ phù hợp với nghề trồng rừng, trồng chè, sơn, cây ăn quả,… có mong muốn được lao động, sản xuất phát triển kinh tế và làm giàu từ đất đồi rừng của mình. Các Công ty lâm nghiệp, Xí nghiệp chè đóng trên địa bàn huyện đều sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có công nghệ, kỹ thuật cao trong khu vực là yếu tố thuận lợi để liên doanh, liên kết chuyển giao tiến bộ kỹ thuật sản xuất và tiêu thụ sản phẩm kinh tế đồi rừng.
Chính sách đồi với đồng bào dân tộc miền núi và chính sách đối với phát triển cây lâm nghiệp, cây chè nói riêng ngày càng được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư hỗ trợ. Tuy nhiên, nền kinh tế còn chưa phát triển, giá trị sản xuất đạt rất thấp, cơ cấu giá trị giữa các lĩnh vực, các ngành chưa hợp lý. Nguồn thu nhập chủ yếu của nhân dân là từ sản xuất nông, lâm nghiệp nhưng chủ yếu từ sản xuất cây lương thực, nguồn thu nhập từ đồi rừng bình quân còn quá thấp chưa tương xứng với lợi thế về đất đai và nguồn lao động. Do vậy, trong khi nguồn lực và trình độ của nhân dân chưa đảm bảo để phát triển các ngành nghề dịch vụ toàn diện và bền vững thì việc xác định chiến lược đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tiến tới làm giàu trên đất đồi rừng là hướng đi đúng, phù hợp với điều kiện và nguồn lực của địa phương.
Trên cơ sở các căn cứ pháp lý, những lợi thế về phát triển kinh tế đồi rừng và yêu cầu đặt ra đối với phát triển kinh tế xã hội của huyện trong giai đoạn từ nay đến 2015 khẳng định: Việc đẩy mạnh phát triển kinh tế đồi rừng để tạo ra việc làm và nâng cao mức thu nhập của nhân dân là vấn đề trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện.
Tác giả bài viết: Phòng TN và MT H.Tân Sơn