Nhảy đến nội dung

Phú Thọ: 10 năm thực hiện chương trình nước sạch và VSMT nông thôn

Nghe bài viết Play Pause
Qua gần 10 năm thực hiện, chương trình đã có những đóng góp quan trọng trong việc cung cấp nước sinh hoạt phục vụ đời sống cho nhân dân các vùng nông thôn và đã nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của đại bộ phận nhân dân.




Tham gia thực hiện mục tiêu cấp NS&VSMT nông thôn có nhiều chương trình, dự án của các tổ chức khác nhau như: Dự án vốn chương trình mục tiêu quốc gia và vốn hỗ trợ vốn của UNICEF do Sở NN&TNT quản lý; vốn vay ADB do Ban quản lý dự án cơ sở hạ tầng nông thôn làm chủ đầu tư; vốn Chương trình 134, 135 do UBND các huyện làm chủ đầu tư; hợp phần nước sạch của dự án giảm nghèo vốn WB, các dự án nước sạch- VSMT nông thôn do các tổ chức phi chính phủ như Plan, UCODEP tài trợ. Tính đến hết năm 2007, trên địa bàn tỉnh đã có trên 7.000 công trình cấp nước phân tán được hoàn thành từ các chương trình, dự án; 126 công trình cấp nước tập trung đã đưa vào sử dụng (trong đó có 92 công trình cấp nước tự chảy, 34 công trình cấp nước sử dụng bơm dẫn ).  Các công trình trên tập trung ở 11 huyện, trong đó  chủ yếu ở 3 huyện: Tân Sơn, Thanh Sơn và Yên Lập. Đến hết năm 2007 ước tính có khoảng gần 70% dân số ở khu vực nông thôn trong tỉnh được sử dụng nước sinh hoạt đạt tiêu chuẩn hợp vệ sinh.




Về vệ sinh môi trường nông thôn, do trong những năm qua Nhà nước không bố trí vốn, nên số công trình vệ sinh được hỗ trợ đầu tư xây dựng còn ít, chủ yếu do dân tự làm; một số công trình được xây dựng từ vốn hỗ trợ từ vốn sự nghiệp của chương trình mục tiêu quốc gia và từ một số dự án nhỏ lẻ khác, do vậy tỷ lệ dân nông thôn có nhà tiêu và chuồng trại hợp vệ sinh mới đạt 48%.




Từ năm 1998 đến 2007, tổng nguồn vốn huy động cho cấp nước và VSMT nông thôn đạt 260 tỷ đồng. Trong đó vốn chương trình mục tiêu quốc gia 61,7 tỷ đồng; vốn hỗ trợ của UNICEF 11,3 tỷ đồng; các chương trình dự án khác 70 tỷ đồng; Ngân hàng chính sách xã hội cho dân vay tín dụng ưu đãi 37 tỷ đồng; nhân dân đóng góp và tự xây dựng khoảng 80 tỷ đồng.




Theo đánh giá, chất lượng các công trình nhìn chung đều đảm bảo theo yêu cầu thiết kế. Tất cả các công trình sau hoàn thành đều được bàn giao cho tổ chức cụ thể để quản lý khai thác, không có công trình vô chủ. Qua khảo sát, trong tổng số 92 công trình cấp nước tự chảy có 72 công trình hoạt động đạt hiệu quả (chiếm tỷ lệ 78,2%), 15 công trình hoạt động bình thường (chiếm 16,3%), 5 công trình hoạt động kém hiệu quả (chiếm 5,5%). Công tác quản lý vận hành công trình bước đầu được thực hiện khá tốt, các hư hỏng được khắc phục kịp thời, việc cấp nước không bị gián đoạn. Các công trình cấp nước tự chảy hầu hết được xây dựng ở các xã miền núi, tập trung chủ yếu tại 3 huyện Thanh Sơn, Tân Sơn và Yên Lập. Sau khi bàn giao đưa vào sử dụng, chính quyền địa phương đều giao công trình cụ thể cho các khu hành chính quản lý, các khu hành chính cử ra tổ vận hành từ 2- 3 người. Việc trả công cho tổ đều do nhân dân tự đóng góp bằng tiền hoặc bằng thóc. Đa số các xã sử dụng công trình cấp nước tự chảy đều không thu tiền nước. Chỉ có một số ít xã có thu, song mức thu chỉ dao động ở mức từ 100- 500 đồng/m3. Các công trình cấp nước tập trung bằng bơm dẫn đa phần được xây dựng ở các xã đông dân cư, thuộc khu vực đồng bằng, trung du hoặc ven sông. Việc quản lý khai thác được tổ chức theo 2 mô hình chủ yếu: Do UBND xã trực tiếp quản lý, hoặc giao cho HTX dịch vụ điện năng, HTX nông nghiệp quản lý. Một số công trình do doanh nghiệp hoặc đơn vị hành chính sự nghiệp quản lý. Các công trình đều được hạch toán thu chi hàng năm, tuy nhiên phần thu chỉ đủ trả chi phí về điện năng, chi trả một phần lương cho cán bộ vận hành và chi phí sửa chữa nhỏ, không có tích lũy để sửa chữa lớn. Mức giá bán nước của các công trình này thường dao động từ 1.500- 2.000 đồng/m3.




Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các công trình cấp nước tập trung, bên cạnh việc thường xuyên tư vấn, giúp đỡ các địa phương, Trung tâm Nước sinh hoạt và VSMTNT đã cho mở nhiều lớp tập huấn công tác quản lý và vận hành cho cán bộ xã và các đơn vị trực tiếp quản lý khai thác công trình; kết hợp tham quan học hỏi kinh nghiệm quản lý ở một số tỉnh bạn; cử cán bộ xuống tận công trình để hướng dẫn thực hành trực tiếp cho cán bộ quản lý nắm được nguyên lý vận hành, có khả năng thực hiện sửa chữa nhỏ và thực hiện bảo dưỡng công trình. Kết hợp với đó, Trung tâm còn phối hợp với chính quyền cơ sở, đẩy mạnh tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của người dân về việc sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, tham gia bảo vệ môi trường, bảo vệ rừng đầu nguồn.




Việc đầu tư xây dựng các công trình cấp nước tập trung trên địa bàn là hết sức cần thiết. Nó không những thuận tiện cho việc quản lý tài nguyên nước, chất lượng nước; giảm mức đầu tư của nhân dân, phù hợp với xu hướng của phát triển nông thôn mới, mà còn góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân khu vực nông thôn. Qua 10 năm thực hiện, lợi ích của Chương trình này đem lại là rất lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng vẫn còn tồn tại rất cần được khắc phục đó là: Hiệu quả và hiệu suất vận hành của công trình chưa cao. Số người sử dụng nước từ các công trình cấp nước bằng bơm dẫn còn thấp so với công suất thiết kế. Một số công trình chưa được bảo dưỡng thường xuyên, nhiều địa phương không có khả năng thay thế các thiết bị hỏng hóc, dẫn đến chất lượng nước ở một số nơi chưa đạt yêu cầu. Công tác đánh giá xét nghiệm chất lượng nước chưa được thực hiện thường xuyên. Việc bảo trì chưa được thực hiện theo đúng quy định của Nhà nước. Chế độ khai thác chưa hợp lý, chưa thực hiện theo đúng quy trình, quy phạm kỹ thuật. Giá tiền nước chưa tính đúng, tính đủ, hiện phần thu chỉ đủ để chi phí tiền điện năng và một phần tiền công cho người quản lý vận hành. Hầu hết các công trình cấp nước tự chảy chưa thu tiền nước, do vậy dẫn đến việc sử dụng nước không kiểm soát được và không có kinh phí để sửa chữa. Hạch toán chưa đúng quy định của Nhà nước, thiếu minh bạch về tài chính; đại đa số các công trình đều chưa có quy chế sử dụng nước. Người cung cấp và người sử dụng nước đều chưa thực hiện trên cơ sở hợp đồng.




Thời gian tới để các công trình cấp nước tập trung phát huy hiệu quả cao, đáp ứng kịp thời nhu cầu sử dụng nước của nhân dân, ngoài việc tập trung khắc phục những yếu kém, tồn tại ở trên, các cấp, các ngành và các đơn vị liên quan cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần tập trung triển khai thực hiện nghiêm việc sắp xếp lại tổ chức và thực hiện quản lý khai thác công trình theo Quyết định 1441 của UBND tỉnh Phú Thọ.

Tác giả bài viết:  Đức Minh