Khai thác tiềm năng mặt nước hồ chứa để phát triển nghề nuôi cá lồng bền vững
Phú Thọ là tỉnh tiềm năng, lợi thế mặt nước sông, hồ, đầm trên địa bàn tỉnh rất lớn; trên địa bàn có 3 con sông lớn chảy qua là: sông Thao, sông Đà, sông Lô và nhiều sông nhỏ, ngòi lớn như: sông Bứa, sông Chảy, ngòi Lao, ngòi Giành, ngòi Me; có 36 hồ đập thủy lợi dung tích từ 0,5 triệu m3 nước trở lên có thể phát triển nghề nuôi cá lồng.
Phú Thọ là tỉnh tiềm năng, lợi thế mặt nước sông, hồ, đầm trên địa bàn tỉnh rất lớn; trên địa bàn có 3 con sông lớn chảy qua là: sông Thao, sông Đà, sông Lô và nhiều sông nhỏ, ngòi lớn như: sông Bứa, sông Chảy, ngòi Lao, ngòi Giành, ngòi Me; có 36 hồ đập thủy lợi dung tích từ 0,5 triệu m3 nước trở lên có thể phát triển nghề nuôi cá lồng. Nghề nuôi cá lồng ở Phú Thọ có từ những năm 1990, người dân chủ yếu nuôi cá lồng ở các hồ, đầm tai các địa phương như Hạ Hòa, Cẩm Khê, Việt Trì, Đoan Hùng, Phù Ninh, Thanh Thủy, Thanh Sơn; trong đó, Cẩm Khê và Hạ Hòa là hai địa phương có phong trào nuôi cá lồng phát triển rất mạnh, có thời điểm số lồng nuôi chiếm hơn 80% tổng số lồng toàn tỉnh. Hoạt động nuôi cá lồng từ những năm 2012 trở về trước chủ yếu là nuôi tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên, đối tượng nuôi là cá trắm cỏ, vật liệu làm lồng bằng tre, thể tích lồng nhỏ (từ 6-10m3/lồng), người dân nuôi cá lồng chủ yếu bằng kinh nghiệm, chưa chú trọng áp dụng các biện pháp phòng, trị bệnh nên hiệu quả không cao. Vì vậy, từ năm 2005 đến năm 2012, nghề nuôi cá lồng trên địa bàn tỉnh giảm sút mạnh cả về số hộ và số lồng nuôi từ 1.235 hộ với 1.566 lồng nuôi giảm xuống còn 330 hộ với 374 lồng nuôi.
Từ năm 2013 trở lại đây, nhận thấy tiềm năng mặt nước sông, hồ của tỉnh là rất lớn, Chi cục Thủy sản đã tham mưu với Sở Nông nghiệp và PTNT tổ chức nhiều đợt tham quan, học tập kinh nghiệm các mô hình nuôi cá lồng trên sông và hồ chứa ở các tỉnh phía Bắc cho cán bộ cấp huyện, xã và người dân của các huyện có tiềm năng mặt nước sông, hồ chứa; đồng thời báo cáo Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách khuyến khích người dân áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới trong nuôi thâm canh cá lồng. Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp và triển khai thực hiện có hiệu quả cơ chế, chính sách của tỉnh đã thúc đẩy nghề nuôi cá lồng của tỉnh phát triển mạnh mẽ cả về quy mô và chất lượng hàng hóa, hình thành nhiều cụm lồng nuôi tập trung với khối lượng hàng hóa lớn; đã xây dựng được 02 nhãn hiệu hàng hóa (cá lồng sông Đà, cá lồng sông Lô). Hoạt động nuôi cá lồng hiện nay tập trung chủ yếu trên trên 03 con sông lớn là sông Đà, sông Lô, sông Bứa và 12 hồ, đập thuộc địa bàn các huyện: Hạ Hòa, Cẩm Khê, Yên Lập, Thanh Sơn, Tân Sơn, Thanh Thủy. Tổng số lồng nuôi trên sông hiện đạt 1.508 lồng, chiếm 88 % tổng số lồng nuôi thâm canh; trong đó sông Đà 237 lồng, sông Lô 1.225 lồng, sông Bứa 46 lồng. Hiện có 21 hộ tham gia nuôi cá lồng tại 12/36 hồ đập với quy mô 205 lồng, chiếm 12% tổng số lồng nuôi thâm canh. Đến năm 2020, toàn tỉnh có 1.832 lồng nuôi thâm canh (tương đương 180.000m3), năng suất bình quân đạt trên 3,4 tấn/lồng, tổng sản lượng cá lồng đạt 5.000 tấn, chiếm 13,3 % tổng sản lượng thủy sản của tỉnh, 100% cơ cấu giống nuôi là các đối tượng đặc sản, có giá trị kinh tế cao (Rô phi, Diêu hồng, Chép, Trắm cỏ, Trắm đen, Nheo mỹ, Chiên, Ngạnh, Bỗng...). Nghề nuôi thâm canh cá lồng phát triển đã nâng cao trình độ kỹ thuật, hình thức tổ chức sản xuất của người dân, phát huy tiềm năng, lợi thế mặt nước, góp phần nâng cao thu nhập của người dân khu vực nông thôn và xây dựng nông thôn mới trên địa bàn. Tuy nhiên, nghề nuôi cá lồng trên sông từ năm 2017 đến nay gặp rất nhiều khó khăn, trực tiếp là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, hoạt động xả lũ của các hồ thủy điện phía thượng nguồn, mực nước sông xuống thấp làm thiệt hại rất lớn cho người dân.
Để đảm bảo nghề nuôi cá lồng của tỉnh phát triển bền vững trong thời gian tới, Ngành Nông nghiệp và PTNT đã chỉ đạo các địa phương thực hiện nhiều giải pháp như: Rà soát, quản lý chặt chẽ hoạt động nuôi cá lồng trên sông, không tăng về quy mô; áp dụng các biện pháp phòng trị dịch bệnh, phòng chống thiên tai; chủ động dịch chuyển cơ cấu giống nuôi, tăng tỷ lệ các giống có khả năng chống chịu với hoạt động xả lũ (cá Trắm cỏ, cá Bỗng, cá Chép), tăng kích cỡ giống thả để rút ngắn chu kỳ nuôi, tập trung thu hoạch trước mùa mưa lũ. Chỉ đạo xây dựng kế hoạch phát triển nghề nuôi cá lồng của tỉnh giai đoạn 2021-2025 theo hướng giảm quy mô số lồng nuôi trên sông, nhất là các địa điểm thường bị cạn; khuyến khích phát triển quy mô số lồng nuôi trong hồ chứa, tập trung là các hồ chứa có dung tích trên 0,5 triệu m3. Dự kiến đến năm 2025, số lồng nuôi trên sông giảm xuống còn 1.295 lồng (giảm 213 lồng); lồng nuôi trong hồ, đập tăng lên 600 lồng (tăng 395 lồng).
Để thực hiện mục tiêu phát triển nghề nuôi thâm canh cá lồng cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành triển khai thực hiện có hiệu quả một số giải pháp như sau:
- Đẩy mạnh hướng dẫn người dân nuôi cá lồng áp dụng các quy trình sản xuất đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng; chú trọng áp dụng các biện pháp quản lý môi trường, phòng trị dịch bệnh, tổ chức sản xuất hợp lý để nâng cao giá trị, hiệu quả đầu tư.
- Tuyên truyền, nhân rộng các mô hình sản xuất thủy sản đặc sản, thủy sản đặc trưng của tỉnh đã có trên địa bàn; chú trọng nhân rộng các mô hình chủ động ương nuôi cá giống đáp ứng nhu cầu sản xuất.
- Đề xuất cơ chế, chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển nghề nuôi cá lồng trong hồ chứa gắn với xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm, xây dựng thị trường tiêu thụ ổn định.
- Rà soát, xây dựng kế hoạch phát triển cá lồng trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2021-2025; nâng cao hiệu quả công tác quản lý chất lượng con giống, vật tư phục vụ sản xuất thủy sản trên địa bàn. Chủ động thực hiện công tác quan trắc cảnh báo môi trường, cảnh báo thiên tai để kịp thời khuyến cáo người dân áp dụng các biện pháp phòng trị dịch bệnh, giảm nhẹ thiên tai bảo vệ sản xuất.
- Thực hiện tốt công tác cải cách hành chính, đơn giản hóa thủ tục hồ sơ trong việc cấp phép sử dụng mặt nước để nuôi cá lồng để các tổ chức, cá nhân mạnh dạn đầu tư, phát triển sản xuất.
Chăm sóc cá nuôi lồng trên hồ Xuân Sơn - Xuân Đài - Tân Sơn |