Trong những năm qua, do ảnh hưởng của biến đối
khí hậu, diễn biến của thời tiết rất phức tạp, số vụ cháy rừng trên cả nước
tăng cao đã gây thiệt hại lớn về giá trị tài nguyên và ảnh hưởng đến kinh tế xã
hội...
Trong những năm qua, do ảnh hưởng của biến đối khí
hậu, diễn biến của thời tiết rất phức tạp, số vụ cháy rừng trên cả nước tăng
cao đã gây thiệt hại lớn về giá trị tài nguyên và ảnh hưởng đến kinh tế xã hội. Vườn quốc gia Xuân Sơn có tổng diện tích tự
nhiên 15.048 ha, trong đó diện tích rừng tự nhiên là 12.000 ha, diện tích rừng
trồng 1.300 ha còn lại diện tích đất trống ( trạng thái Ia, Ib, Ic), trong đó
có hơn 2.000 ha rừng rễ cháy. Nằm ở điểm cuối
của dãy Hoàng Liên Sơn,Vườn quốc gia Xuân Sơn là một trong những vùng có tính
đa dạng sinh học cao nhất Việt Nam; Xuân Sơn được đánh giá như một bảo tàng lưu
giữ nguồn gen sống cho Việt Nam cũng như nhân loại. Mặt khác, trong vùng lõi của VQG Xuân Sơn hiện có 800 hộ dân với 4.000
nhân khẩu đang sinh sống, phần lớn các hộ dân thuộc diện hộ nghèo, có trình độ
dân trí chưa đồng đều, chính vì vậy đã gây ra áp lực rất lớn trong công tác
quản lý bảo vệ rừng và PCCCR.
Nhận
thức rõ được tầm quan trọng của công tác PCCCR với phương châm “ Phòng cháy
hơn chữa cháy”, vườn quốc gia Xuân Sơn triển khai thực hiện nhiều giải pháp
phòng cháy và chữa cháy rừng trên địa bàn và đã mang lại những hiệu quả tích
cực, cụ thể:
1. Ký kết quy chế phối hợp với Hạt Kiểm lâm
các huyện trong khu vực giáp ranh trong công tác tuần tra, kiểm tra, phát hiện
và ngăn chặn kịp thời các vụ vi phạm quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
Bên cạnh đó, phối hợp với chính quyền địa phương các xã vùng đệm tổ chức tuyên
truyền nâng cao nhận thức, ý thức và trách nhiệm của cộng đồng địa phương đối
với việc bảo vệ rừng, PCCCR và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu. Công tác
tổ chức và xây dựng các chương trình tuyên truyền phải phù hợp với đặc điểm của
từng khu vực, phải dựa vào yếu tố dân tộc, phong tục tập quán canh tác của từng
dân tộc để đưa ra các hình thức, biện pháp tuyên truyền phù hợp với mục tiêu
nội dung cần tuyên truyền lan tỏa sâu, rộng đến mọi đối tượng, mọi tầng lớp
nhân dân trong địa phương. Ký cam kết bảo vệ rừng với cộng đồng 29 thôn vùng
đệm và đưa ra những tiêu chí đánh giá phân loại để lồng ghép với việc thực hiện
hỗ trợ đầu tư cho cộng đồng theo chính sách đầu tư phát triển rừng đặc dụng
hàng năm, vì vậy, đã gắn chặt được trách nhiệm của cộng đồng trong công tác BVR
và PCCCR. Trong giai đoạn 2011 - 2015 đã
tổ chức mở 30 lớp tuyên truyền/năm, phát 4000 tờ rơi, xây dựng 15 bảng nội quy
tuyên truyền tại thôn, xóm, hợp đồng phát bản tin tuyên truyền qua loa phát
thanh của xóm vào 6 tháng mùa hanh khô. Lựa chọn đối tượng tuyên truyền là Hội
phụ nữ, đoàn thanh niên, hội nông dân các xã; Giáo dục môi trường cho học sinh
tiểu học và trung học cơ sở thông qua hình thức tổ chức các cuộc thi vẽ tranh
về thiên nhiên, bài viết về rừng, xây dựng các tiểu phẩm về bảo vệ rừng, lồng
ghép với các buổi liên hoan văn nghệ quần chúng. Ngoài ra, các hình thức tuyên
tuyền khác được thực hiện và vận dụng linh hoạt, hiệu quả theo điều kiện cụ thể
của từng khu vực, từng đối tượng để đạt được hiệu quả cao nhất thông qua việc
hướng dẫn người dân sử dụng lửa hợp lý,
phát dọn và xử lý thực bì trồng rừng theo cách “cầm tay chỉ việc”.
2. Đầu tư trang thiết bị, cơ sở hạ tầng phục
vụ bảo vệ rừng, PCCCR: Về trang thiết bị được đầu tư và tu sửa, bảo dưỡng hàng
năm như: Dụng cụ chữa cháy rừng: dao phát, đèn bin, loa cầm tay…; Hệ thống bảng
cấp dự báo cháy rừng ( 06 bảng); Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tiếp
nhận thông tin cảnh báo sớm cháy rừng. Về cơ sở hạ tầng: đầu tư hơn 30 km đường
tuần tra bảo vệ rừng, từ đó đã tạo được thế chủ động về lực lượng, phương tiện,
trang thiết bị trong công tác phòng cháy, chữa cháy rừng.
Nhờ chủ động trong công tác phòng cháy, trong
những năm qua, VQG Xuân Sơn không để sảy ra cháy rừng và các vụ vi phạm quy
định về PCCCR, nhận thức của cộng đồng địa phương ngày càng được nâng cao, hiểu
rõ được quyền lợi, trách nhiệm của mình trong công tác bảo vệ rừng và PCCCR.