Việc thanh kiểm tra, xử lý các hành vi gây ô nhiễm trên thực tế còn có mức độ. Một số kim loại nặng điển hình thường gặp trên thực tế có khả năng trực tiếp hoặc gián tiếp gây nhiễm độc cho con người gồm chì, Asen, nhôm, thuỷ ngân.v.v...
Nhiễm độc chì: Chì là một chất rất độc trong môi trường. Các mỏ quặng chì, bãi thải của các nhà máy, cơ sở sản xuất pin, ắc quy, chất dẻo tổng hợp, sơn, hoá chất khói bụi của động cơ dùng nhiên liệu có pha chì, ống dẫn nước trước đây làm bằng hợp kim pha chì là nguồn gây ô nhiễm chủ yếu. Chì xâm nhập vào người qua đường hô hấp, thức ăn, nước uống, qua da. Sữa của người mẹ bị nhiễm chì cũng là nguồn gây nhiễm độc cho trẻ bú mẹ. Chì tích đọng trong xương và hồng cầu, gây rối loạn tuỷ xương, đau khớp, đau bụng, viêm thận, cao huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến não, tạo viền đen ở lợi quanh chân răng, gây nhiễm độc thần kinh trung ương và ngoại biên, góp phần phá vỡ hồng cầu gây thiếu máu, làm rối loạn chức năng thận. Phụ nữ có thai và trẻ em là nhóm rất dễ bị tác động ảnh hưởng của chì. Chì có thể làm giảm chỉ số thông minh, gây sẩy thai, hoặc tử vong ở trẻ sơ sinh.
Các cơ sở sản xuất tạo ra nguồn ô nhiễm chì phải xử lý chất thải theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Cộng đồng dân cư tốt nhất là không cư trú trong vùng chịu ảnh hưởng của các cơ sở sản xuất có phát thải chì. Khi phải cư trú làm việc hay đi qua vùng chịu ảnh hưởng ô nhiễm chì, có thể hạn chế phần nào sự thâm nhập của chì vào cơ thể bằng cách hạn chế để da trần tiếp xúc với bụi chì, đeo khẩu trang khi đi đường, kiểm soát vệ sinh nước uống, lương thực thực phẩm, thực hiện khám định kỳ để phát hiện và chủ động xử lý sớm các bệnh do ảnh hưởng của ô nhiễm chì gây nên.
Nhiễm độc Asen (Thạch tín): Asen là chất rất độc, thâm nhập vào cơ thể con người chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá, có thể gây tử vong với liều rất nhỏ. Asen có sẵn trong tự nhiên (chủ yếu trong khoáng vật Arsenopyrít và nằm trong mạng tinh thể pyrít, khi hai khoáng vật này bị ô xy hoá, chúng sẽ giải phóng Asen). Asen thường xuất hiện dưới dạng hợp chất hoà tan trong nước ngầm ở tầng nông. Trong công nghiệp, Asen xuất hiện trong chất thải của công nghiệp luyện kim, đốt than đá, sản xuất gốm và thuỷ tinh, sản xuất thuốc trừ sâu, chất bảo quản gỗ, sản xuất a xít sulfuric (H2SO4).
Con ngưòi có thể bị nhiễm độc Asen theo kiểu cấp tính (nhiễm một liều lớn) hay nhiễm độc trường kỳ (từng chút một). Khi nhiễm độc cấp tính, lúc đầu là sự khó thở, ho, tức ngực sau đó là đau đầu, mất thăng bằng. Nếu liều đủ lớn có thể gây tử vong trong vòng 20 phút. Nếu liều lượng nhỏ có thể gây nôn mửa, đau bụng trên, đi ngoài, đau cơ...
Nhiễm độc trường kỳ bắt đầu bằng biểu hiện bệnh lý ngoài da: đau sưng tấy da, đi lại khó khăn, có những vệt trắng ở móng tay. Tiếp theo có thể là đau bụng trên, nôn mửa, viêm kết mạc, viêm mũi, viêm họng, viêm thanh quản, thủng sụn mũi, xơ cứng gan bàn chân, ung thư da, rối loạn mạch máu ngoại vi, chân răng chuyển màu đen, suy yếu chức năng gan, ung thư nội tạng, sạm da, mất sắc tố da, chai cứng da, trường hợp kéo dài dẫn đến tử vong.
Nguồn gây nhiễm Asen thường gặp là nước chảy ra từ mỏ có chứa Arsenopyrít và Py rít hoặc từ các nhà máy sản xuất axit sulfuric. Ngoài ra nước ngầm trong các giếng khoan nông cũng có thể bị nhiễm Asen vì khi bơm hút, mực nước trong giếng hạ thấp, tầng nước bị tác động của o xy làm cho các khoáng vật chứa Asen bị o xy hoá, giải phóng Asen. Những nơi sử dụng giếng khoan nông cần hết sức cảnh giác với hiểm hoạ này. ở những vùng có nguy cơ chịu ảnh hưởng ô nhiễm Asen cần phải được sử dụng nguồn nước đảm bảo an toàn.
Nhiễm độc Nhôm: Nhôm là kim loại được sử dụng rộng rãi. Nhôm qua đường tiêu hoá sẽ nằm trong ruột, dạ dày và thường được thải ra ngoài qua đường bài tiết. Tuy nhiên, nếu cơ thể thiếu sắt thì thì Nhôm sẽ thẩm thấu qua ruột để vào máu. Phổi là nơi Nhôm dễ tích đọng nhất. Nhiễm độc Nhôm có thể gây bệnh hen, cơ hoá phổi, ho khan, khó thở, đau ngực, tràn khí màng phổi thiểu năng trí tuệ, thậm trí mất trí nhớ và có thể dẫn đến tử vong.
Cách phòng tránh hữu hiệu nhất là không lưu chứa thức ăn trong các dụng cụ nhôm, đặc biệt là các thức ăn có vị chua, mặn vì chua hay mặn đều là điều kiện tốt cho Nhôm tan vào thức ăn.
Bảo vệ môi trường cũng như đảm bảo an toàn cho ngôi nhà, cho gia đình bạn. Nhu cầu được sống trong một môi trường trong sạch là vô cùng cần thiết. Mỗi người cần phải hiểu biết để chủ động phòng chống nhiễm môi trường vì sức khoẻ của chính bạn, của người thân và cả cộng đồng.
Nhiễm độc chì: Chì là một chất rất độc trong môi trường. Các mỏ quặng chì, bãi thải của các nhà máy, cơ sở sản xuất pin, ắc quy, chất dẻo tổng hợp, sơn, hoá chất khói bụi của động cơ dùng nhiên liệu có pha chì, ống dẫn nước trước đây làm bằng hợp kim pha chì là nguồn gây ô nhiễm chủ yếu. Chì xâm nhập vào người qua đường hô hấp, thức ăn, nước uống, qua da. Sữa của người mẹ bị nhiễm chì cũng là nguồn gây nhiễm độc cho trẻ bú mẹ. Chì tích đọng trong xương và hồng cầu, gây rối loạn tuỷ xương, đau khớp, đau bụng, viêm thận, cao huyết áp vĩnh viễn, liệt, tai biến não, tạo viền đen ở lợi quanh chân răng, gây nhiễm độc thần kinh trung ương và ngoại biên, góp phần phá vỡ hồng cầu gây thiếu máu, làm rối loạn chức năng thận. Phụ nữ có thai và trẻ em là nhóm rất dễ bị tác động ảnh hưởng của chì. Chì có thể làm giảm chỉ số thông minh, gây sẩy thai, hoặc tử vong ở trẻ sơ sinh.
Các cơ sở sản xuất tạo ra nguồn ô nhiễm chì phải xử lý chất thải theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường. Cộng đồng dân cư tốt nhất là không cư trú trong vùng chịu ảnh hưởng của các cơ sở sản xuất có phát thải chì. Khi phải cư trú làm việc hay đi qua vùng chịu ảnh hưởng ô nhiễm chì, có thể hạn chế phần nào sự thâm nhập của chì vào cơ thể bằng cách hạn chế để da trần tiếp xúc với bụi chì, đeo khẩu trang khi đi đường, kiểm soát vệ sinh nước uống, lương thực thực phẩm, thực hiện khám định kỳ để phát hiện và chủ động xử lý sớm các bệnh do ảnh hưởng của ô nhiễm chì gây nên.
Nhiễm độc Asen (Thạch tín): Asen là chất rất độc, thâm nhập vào cơ thể con người chủ yếu qua đường hô hấp và tiêu hoá, có thể gây tử vong với liều rất nhỏ. Asen có sẵn trong tự nhiên (chủ yếu trong khoáng vật Arsenopyrít và nằm trong mạng tinh thể pyrít, khi hai khoáng vật này bị ô xy hoá, chúng sẽ giải phóng Asen). Asen thường xuất hiện dưới dạng hợp chất hoà tan trong nước ngầm ở tầng nông. Trong công nghiệp, Asen xuất hiện trong chất thải của công nghiệp luyện kim, đốt than đá, sản xuất gốm và thuỷ tinh, sản xuất thuốc trừ sâu, chất bảo quản gỗ, sản xuất a xít sulfuric (H2SO4).
Con ngưòi có thể bị nhiễm độc Asen theo kiểu cấp tính (nhiễm một liều lớn) hay nhiễm độc trường kỳ (từng chút một). Khi nhiễm độc cấp tính, lúc đầu là sự khó thở, ho, tức ngực sau đó là đau đầu, mất thăng bằng. Nếu liều đủ lớn có thể gây tử vong trong vòng 20 phút. Nếu liều lượng nhỏ có thể gây nôn mửa, đau bụng trên, đi ngoài, đau cơ...
Nhiễm độc trường kỳ bắt đầu bằng biểu hiện bệnh lý ngoài da: đau sưng tấy da, đi lại khó khăn, có những vệt trắng ở móng tay. Tiếp theo có thể là đau bụng trên, nôn mửa, viêm kết mạc, viêm mũi, viêm họng, viêm thanh quản, thủng sụn mũi, xơ cứng gan bàn chân, ung thư da, rối loạn mạch máu ngoại vi, chân răng chuyển màu đen, suy yếu chức năng gan, ung thư nội tạng, sạm da, mất sắc tố da, chai cứng da, trường hợp kéo dài dẫn đến tử vong.
Nguồn gây nhiễm Asen thường gặp là nước chảy ra từ mỏ có chứa Arsenopyrít và Py rít hoặc từ các nhà máy sản xuất axit sulfuric. Ngoài ra nước ngầm trong các giếng khoan nông cũng có thể bị nhiễm Asen vì khi bơm hút, mực nước trong giếng hạ thấp, tầng nước bị tác động của o xy làm cho các khoáng vật chứa Asen bị o xy hoá, giải phóng Asen. Những nơi sử dụng giếng khoan nông cần hết sức cảnh giác với hiểm hoạ này. ở những vùng có nguy cơ chịu ảnh hưởng ô nhiễm Asen cần phải được sử dụng nguồn nước đảm bảo an toàn.
Nhiễm độc Nhôm: Nhôm là kim loại được sử dụng rộng rãi. Nhôm qua đường tiêu hoá sẽ nằm trong ruột, dạ dày và thường được thải ra ngoài qua đường bài tiết. Tuy nhiên, nếu cơ thể thiếu sắt thì thì Nhôm sẽ thẩm thấu qua ruột để vào máu. Phổi là nơi Nhôm dễ tích đọng nhất. Nhiễm độc Nhôm có thể gây bệnh hen, cơ hoá phổi, ho khan, khó thở, đau ngực, tràn khí màng phổi thiểu năng trí tuệ, thậm trí mất trí nhớ và có thể dẫn đến tử vong.
Cách phòng tránh hữu hiệu nhất là không lưu chứa thức ăn trong các dụng cụ nhôm, đặc biệt là các thức ăn có vị chua, mặn vì chua hay mặn đều là điều kiện tốt cho Nhôm tan vào thức ăn.
Bảo vệ môi trường cũng như đảm bảo an toàn cho ngôi nhà, cho gia đình bạn. Nhu cầu được sống trong một môi trường trong sạch là vô cùng cần thiết. Mỗi người cần phải hiểu biết để chủ động phòng chống nhiễm môi trường vì sức khoẻ của chính bạn, của người thân và cả cộng đồng.
Tác giả bài viết: Bạch Thái Toàn - Phó chánh Văn phòng Sở