Nhảy đến nội dung

Chuyển hóa rừng gỗ lớn - Triển vọng phát triển kinh tế bền vững (Kỳ I)

Nghe bài viết Play Pause

Kỳ I: Nâng cao giá trị rừng trồng

Thời gian qua, tỉnh Phú Thọ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện việc trồng rừng, phát triển kinh tế lâm nghiệp với những chính sách chuyên biệt, mang tính đột phá. Nhiều cách làm sáng tạo, hiệu quả phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, trong đó có chính sách khuyến khích chuyển hóa rừng gỗ lớn đang nhanh chóng đi vào thực tiễn.

Từ khi ban hành đến nay, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn theo Nghị quyết số 22/2021/NQ-HĐND ngày 09/12/2021 (Nghị quyết 22), của HĐND tỉnh được các cấp, các ngành triển khai hiệu quả. Trong đó, chính sách hỗ trợ chuyển hóa rừng cây gỗ lớn đã được các địa phương thực hiện nghiêm túc, đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

“Bước chuyển” từ Nghị quyết

Nghị quyết 22 quy định chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh Phú Thọ đảm bảo sự phù hợp với yêu cầu phát triển, thực tiễn sản xuất và Kế hoạch phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2021-2025 của tỉnh. Sau hơn một năm Nghị quyết 22 được ban hành, với sự vào cuộc tích cực của tỉnh, các cấp, ngành, địa phương, các nội dung hỗ trợ, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được triển khai. Nhiều mô hình, dự án được nhận hỗ trợ, tạo điều kiện cho người dân, hộ gia đình, chủ trang trại, hợp tác xã, tổ hợp tác thêm nguồn lực đầu tư về cây giống, phân bón, tiếp cận kỹ thuật trồng, chăm sóc cây trồng, vật nuôi, điều kiện để được chứng nhận thực hành nông nghiệp tốt, hướng đến xây dựng nền nông nghiệp hàng hóa cho giá trị kinh tế cao.

So với trồng rừng gỗ nhỏ, lợi nhuận từ rừng gỗ lớn cao hơn nhiều lần tuỳ theo tuổi khai thác và đường kính cây. Chỉ tính riêng đối với loại cây trồng phổ biến là cây keo, khai thác ở năm thứ 5-6 chỉ có thể bán làm dăm gỗ, giá trị đạt khoảng 60-80 triệu đồng/ha, thu nhập bình quân từ 10-12 triệu đồng/ha/năm. Nhưng khi trở thành rừng trồng gỗ lớn, tức là cây sau 10-14 năm trồng mới tiến hành khai thác, hầu hết các cây đều đạt đường kính từ 18cm trở lên, sản lượng đạt từ 200-240m3/ha. Rừng sẽ được bán theo giá gỗ xẻ, gỗ chế biến với giá từ 1,8-2 triệu đồng/1m3 tương đương 250 triệu đồng/ha, lợi nhuận bình quân 20 triệu đồng/ha/năm.

Ông Trần Ngọc Sơn, xã Thục Luyện, huyện Thanh Sơn bày tỏ: “Trước kia, đất rừng nhiều nhưng gia đình tôi cũng như nhiều hộ dân trong xã không biết cách làm hiệu quả, giá trị không cao nên cái đói, cái nghèo cứ đeo bám. Hiện nay, với 20ha trồng cây keo, nhờ được tuyên truyền lợi ích từ chuyển hóa rừng gỗ lớn mang lại, gia đình quyết định chuyển hóa 4ha rừng với chu kỳ khai thác từ 10-12 năm để tăng kích thước, giá thành khi thu hoạch. Đặc biệt, khi tham gia chuyển hóa rừng gỗ lớn, gia đình còn được nhận tiền hỗ trợ của Nhà nước để có thêm kinh phí chăm sóc rừng tốt hơn. Chúng tôi biết ơn các cấp ủy Đảng, chính quyền đã định hướng đổi mới tư duy cách làm mới trong sản xuất, giúp chúng tôi có cuộc sống ổn định khấm khá hơn”.

Thanh Sơn có diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên 42.000ha, chiếm gần 70% tổng diện tích đất tự nhiên. Với lợi thế về rừng, triển khai thực hiện Nghị quyết số 22 HĐND tỉnh, Đảng bộ huyện đã quyết liệt chỉ đạo tập trung các nguồn lực để hỗ trợ cho người dân phát triển kinh tế rừng; tổ chức các lớp tập huấn, hướng dẫn biện pháp kỹ thuật cho các hộ trồng rừng thâm canh gỗ lớn, chuyển hóa rừng gỗ nhỏ sang rừng trồng gỗ lớn đối với cây keo lai và keo tai tượng. Cụ thể hóa mục tiêu này, Huyện ủy yêu cầu cấp ủy, chính quyền các địa phương xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm của người đứng đầu. Căn cứ tình hình thực tế, các địa phương xây dựng kế hoạch, trong đó nêu cao vai trò của chi bộ cũng như sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Chỉ tính riêng từ năm 2020 đến nay, Thanh Sơn đã có gần 100 người dân, chủ rừng tại các xã: Võ Miếu, Thạch Khoán, Tất Thắng, Cự Thắng, Thục Luyện… tham gia chuyển đổi trên 300ha rừng gỗ lớn.

Phú Thọ là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc có thế mạnh về phát triển kinh tế đồi rừng. Chính sách cụ thể hỗ trợ chuyển hóa rừng cây gỗ lớn hướng đến trang bị kiến thức về trồng rừng, nâng cao giá trị kinh tế, mang lại thu nhập ổn định cho người dân. Việc chuyển đổi trồng rừng ngắn ngày sang trồng rừng gỗ lớn không chỉ góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, chống biến đổi khí hậu mà còn tăng tính bền vững trong hoạt động sản xuất lâm nghiệp.

Thúc đẩy phát triển kinh tế lâm nghiệp

Việc thực hiện các nghị quyết, nghị định của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, góp phần phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nâng cao hiệu quả kinh tế đồi rừng đã được tỉnh chủ động tập trung nguồn lực triển khai thực hiện. Các chính sách đều tập trung hỗ trợ trồng rừng sản xuất theo hướng quy mô tập trung, hình thành các vùng nguyên liệu phục vụ chế biến lâm sản.Theo số liệu thống kê của Chi cục kiểm lâm tỉnh: Hiện tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp quy hoạch trên 188.000ha, chiếm 53,21% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Diện tích đất có rừng trên 169.000ha. Tỉ lệ che phủ rừng đạt 39,9%; sản xuất cây giống cơ bản đáp ứng nhu cầu phục vụ trồng rừng tại các địa phương trong tỉnh. Trong đó, keo vẫn là loài cây chủ lực. Hàng năm, diện tích trồng rừng tập trung khoảng gần 10.000ha.

Chúng tôi về khu Gò Làng, xã Văn Khúc, huyện Cẩm Khê để tìm hiểu về việc thực hiện chuyển hoá rừng gỗ lớn. Làm việc với lãnh đạo xã, được biết những diện tích rừng trồng manh mún của chục năm về trước đã được thay thế bằng những cánh rừng xanh ngút ngàn của các loại cây lấy gỗ. Chỉ cho chúng tôi những ngôi nhà khang trang được xây kiên cố hai bên con đường bê tông bằng phẳng, đảng viên Nguyễn Xuân Hồng - người đã có nhiều năm gắn bó với rừng phấn khởi chia sẻ: “Nhờ sự quan tâm các cấp chính quyền, chúng tôi trồng keo phủ kín những cánh rừng. Riêng nhà tôi, năm 2020 đã đăng ký thực hiện trồng rừng gỗ lớn 16ha rừng keo. Người dân Gò Làng giờ đây đã yên tâm tập trung phát triển kinh tế từ rừng”.

Để hiện thực hóa mục tiêu trồng rừng gỗ lớn, Sở Nông nghiệp và PTNT thực hiện đề tài khoa học “Xây dựng mô hình chuyển hóa rừng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng gỗ lớn các loài cây keo lai và keo tai tượng trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” trên diện tích 30ha tại các xã Kim Thượng (huyện Tân Sơn), Tân Minh (huyện Thanh Sơn), Ngọc Đồng (huyện Yên Lập). Chi cục Kiểm lâm tỉnh thực hiện mô hình “Chuyển hóa rừng cây gỗ lớn để phát triển lâm nghiệp bền vững thích ứng với biến đổi khí hậu trên địa bàn tỉnh”, chuyển hóa được 100ha rừng trên địa bàn huyện Thanh Sơn với tám hộ gia đình được hỗ trợ chi phí nhân công, phân bón. Hiện nay mô hình đang sinh trưởng, phát triển tốt, được chăm sóc, bảo vệ theo đúng quy trình kỹ thuật.

Qua các mô hình, đề tài thử nghiệm đã chứng minh việc thực hiện chuyển hóa rừng gỗ lớn mang lại hiệu quả đối với sự phát triển kinh tế như: Tiết kiệm chi phí mua cây giống, chi phí trồng, chăm sóc, giảm sâu bệnh hại; góp phần tăng nguồn lực giúp người dân đầu tư thâm canh rừng trồng; hỗ trợ các hộ gia đình, cá nhân đa dạng hóa sản phẩm từ đồi rừng, nâng cao thu nhập. Đồng thời, tỉnh khuyến khích các nhà đầu tư xây dựng nhà máy chế biến gỗ để tăng giá trị rừng trồng, phát huy tiềm năng của địa phương. Thông qua công tác tuyên truyền, các buổi tập huấn, người dân hiểu, thấy được lợi ích của việc thâm canh rừng gỗ lớn là nâng cao thu nhập trên đơn vị diện tích, giúp giảm xói mòn, rửa trôi đất, bảo vệ môi trường sinh thái và chống biến đổi khí hậu có hiệu quả.

Đồng chí Trần Tú Anh- Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp &PTNT nhận định: Phú Thọ là một trong những tỉnh đi đầu của cả nước ban hành cơ chế cụ thể để hỗ trợ người dân chuyển hóa rừng gỗ lớn. Với việc đưa ra mục tiêu cụ thể và triển khai đồng bộ từ tỉnh, địa phương, đến nay, thực hiện chủ trương chuyển hóa rừng gỗ lớn của tỉnh, các địa phương đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Công tác phối hợp liên ngành được triển khai thực hiện hiệu quả hơn. Các nguồn lực xã hội đầu tư cho lâm nghiệp, nhất là xã hội hóa nghề rừng được tăng cường, ngày càng thực chất hơn. Các vụ việc vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ, phát triển rừng được xử lý kịp thời, nghiêm túc, từng bước hạn chế vi phạm pháp luật.