Thực trạng quản lý và sử dụng đất của các Công ty Lâm Nghiệp và XNDV chè trên địa bàn huyện Yên Lập
Lâm truờng Yên Lập (Công ty Lâm nghiệp Yên Lập) 3.507 ha, nằm trên địa bàn các xã: Đồng Thịnh, Đồng Lạc, Ngọc Lập, Minh Hòa, Phúc Khánh, TT Yên Lập; Lâm trường A Mai (Công ty Lâm nghiệp A Mai) 1.644 ha, nằm trên địa bàn các xã: Mỹ Lung, Mỹ Lương, Lương Sơn và Xuân An; Xí nghiệp Dịch vụ chè Ngọc Đồng 1.496,9 ha trên địa bàn 2 xã Ngọc Đồng và Minh Hòa; Xí nghiệp Dịch vụ chè Hưng Long là 962,75 ha, nằm trên địa bàn các xã: Hưng Long, Xuân Thủy, Nga Hoàng, TT Yên Lập, Thượng Long, Đồng Thịnh và Phúc Khánh.
Các NLT giai đoạn đầu khi mới thành lập đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu phương vững chắc cho miền Nam thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Giai đoạn từ khi đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù gặp nhiều khó khăn xong Lâm trường Phúc Khánh (tiền thân của các đơn vị nông lâm truờng sau này) vẫn nỗ lực thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo đời sống cho cán bộ, công nhân viên đồng thời tổ chức thực hiện tốt việc khai thác, trồng tu bổ và bảo vệ rừng theo kế hoạch của tỉnh và huyện giao.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới hình thức quản lý, thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, từ 1986 - 1990 các nông lâm trường được thành lập và tách ra từ Lâm trường Phúc Khánh gồm: Lâm trường Yên Lập, Lâm trường A Mai, Nông truờng quốc doanh Ngọc Đồng, Nông trường quốc doanh Hưng Long. Với chức năng nhiệm vụ được giao các NLT đã thực hiện tốt vai trò của mình trong khai thác, trồng rừng và phát triển nông lâm nghiệp góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế huyện nhà.
Tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới các NLT quốc doanh, xóa bỏ hoàn toàn bao cấp trong sản xuất NLN, các NLT tự hạch toán kinh doanh độc lập theo cơ chế thị trường, do vậy quy mô SXKD được thu hẹp, từ 1991 đến 1995 các NLT giao bớt diện tích đất cho các địa phương quản lý. Đến năm 1998, các NLT đã được giao đất ổn định và UBND tỉnh đã cấp GCNQSDĐ cho 2 lâm truờng: Yên Lập, A Mai. Từ đó đến nay, các NLT có kế hoạch quản lý chặt chẽ hơn quỹ đất được giao để phát triển NLN theo đúng chức năng và nhiệm vụ của mình, đã đóng góp không nhỏ vào giá trị sản xuất nông lâm nghiệp trong phát triển kinh tế của toàn huyện, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, tăng độ che phủ rừng toàn huyện lên khoảng 60%.
Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng đất của các NLT trên địa bàn huyện còn nhiều tồn tại và bất cập. Đó là:
- Trong quản lý và sử dụng đất:
+ Tình hình tranh chấp đất đai giữa nhân dân các xã với các NLT đã và đang xảy ra có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp hơn, nhất là trong năm 2008 UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tập trung giải quyết rất nhiều vụ tranh chấp xảy ra trên địa bàn các xã: Lương Sơn, Phúc Khánh, Ngọc Lập, Ngọc Đồng.
+ Cấp trùng GCNQSDĐ giữa đất của các Công ty lâm nghiệp thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh với GCNQSDĐ của các hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND huyện.
+ Một số hộ dân người địa phương đã ở và canh tác lâu đời nhưng đến nay các hộ vẫn chưa được cấp GCNQSDĐ do nằm trên phần đất các NLT đã được giao và cấp GCNQSDĐ trong khi chưa được đền bù giải phóng mặt bằng cũng như tái định cư theo quy định của pháp luật.
+ Các NLT trước đây đã thực hiện giao đất cho một số hộ dân trên địa bàn các xã, thị trấn với thời hạn giao từ 30 - 50 năm nhưng nay lại đòi lại đất đã giao dẫn đến tình trạng đơn thư khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều và phức tạp.
+ Tình trạng các NLT tự giao đất cho các hộ gia đình công nhân làm nhà ở, nay đã xây dựng nhà kiên cố nhưng chưa làm thủ tục hợp thức cấp QSD đất theo quy định Luật Đất đai hiện hành.
- Trong Bảo vệ môi truờng sinh thái: (cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp):
Do một số diện tích đất lâm nghiệp của các NLT nằm trong khu vực rừng đầu nguồn có chức năng cung cấp nước cho hệ thống các phai, ngòi, suối của địa phương, trong những năm gần đây các NLT thực hiện trồng và khai thác rừng với biện pháp là khai thác trắng theo chu kỳ khi rừng đến tuổi, nên một số diện tích rừng bị khai thác trắng cộng thêm cường độ kinh doanh rừng ngày một mạnh hơn đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước cung cấp cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân địa phương, như: khu vực Núi Đỗng, Núi Giường và phai Ngà ảnh hưởng đến cung cấp nước cho đập phai Làng và phai Ngà tưới cho đất ruộng của các thôn Vinh Thịnh, Hòa Bình, Đại Đồng, Xe ngà, Liên An, Đồng An (xã Mỹ Lương); Núi Thuồng, núi Ngựa Lồng cung cấp nước cho Hồ Vỡ, suối Cái (xã Lương Sơn); Khu khe Mãn cung cấp nước cho hồ Dộc Giang (xã Xuân An); khu vực khe Văn, đập Trò (xã Đồng Lạc); khu vực Đồi Vông (xã Phúc Khánh).
- Nguyên nhân của những tồn tại đã nêu ở trên là:
+ Do diện tích đất giao cho các NLT quá lớn, mặt khác công tác quy hoạch chưa chính xác trong khi đó quá trình lập thủ tục trình UBND tỉnh cấp GCNQSDĐ (1998) các NLT không thực hiện việc kiểm tra, rà soát diện tích thực tế đang sử dụng dẫn đến cấp chồng vào cả phần đất do nhân dân địa phương đã sử dụng ổn định từ trước tới nay, diện tích được UBND huyện đã giao, cấp GCNQSD đất, diện tích UBND tỉnh đã quyết định hợp thức cho trại giam Tân Lập từ năm 1997.
+ Quá trình chuyển đổi cơ chế sản xuất kinh doanh của các nông lâm truờng, thiếu vốn trong phát triển sản xuất do vậy phần lớn diện tích đã không đưa vào sử dụng còn để hoang hoá nên nhân dân địa phương đã xâm chiếm sử dụng.
+ Do thay đổi chủ trương, chính sách trong quá trình phát triển các NLT quốc doanh của Đảng và Nhà nước.
+ Do nhu cầu cần đất sản xuất của nhân dân địa phương.
Để tập trung giải quyết dứt điểm và tháo gỡ các tồn tại trên cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Đối với Tổng Công ty Giấy Việt Nam: Cần quy hoạch, đền bù tái định cư cho các hộ dân đã sinh sống lâu đời trên phần đất quy hoạch cho các công ty Lâm nghiệp quản lý. Điều chỉnh quy hoạch đất sản xuất giao lại một phần cho UBND các xã quản lý để giao lại cho các hộ gia đình nông dân thiếu đất sản xuất.
- Đối với các đơn vị NLT: Sắp xếp quy hoạch lại diện tích đất đã được giao quản lý, trả lại diện tích đất sử dụng không hiệu quả giao lại cho địa phương quản lý và sử dụng. Đối với diện tích đất xí nghiệp đã tạm giao cho các hộ công nhân mượn làm nhà ở, nay đã xây nhà kiên cố, đề nghị các NLT phối hợp với UBND các xã nằm trên địa bàn khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền thu hồi, giao đất và cấp GCNQSDĐ để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các hộ gia đình công nhân. Các hộ dân đã ở ổn định lâu dài từ trước tới nay nằm trong phần đất của các NLT do việc khoanh định ranh giới không rõ ràng, đề nghị các NLT làm thủ tục trình đơn vị chủ quản và cấp có thẩm quyền phê duyệt trả đất ra và giao lại cho địa phương quản lý.
- Đề nghị UBND tỉnh tố chức hội nghị giải quyết những tồn tại trong quản lý sử dụng đất của các NLT trên địa bàn tỉnh nói chung, huyện Yên Lập nói riêng. Chỉ đạo quy hoạch tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các NLT và quyết định thu hồi phần diện tích đất của các NLT chưa sử dụng, sử dụng không hiệu quả để giao lại cho địa phương quản lý và sử dụng góp phần giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số theo chủ trương chính sách của Nhà nước.
Các NLT giai đoạn đầu khi mới thành lập đã thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, là hậu phương vững chắc cho miền Nam thực hiện đấu tranh giải phóng dân tộc thống nhất đất nước. Giai đoạn từ khi đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, mặc dù gặp nhiều khó khăn xong Lâm trường Phúc Khánh (tiền thân của các đơn vị nông lâm truờng sau này) vẫn nỗ lực thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao, đảm bảo đời sống cho cán bộ, công nhân viên đồng thời tổ chức thực hiện tốt việc khai thác, trồng tu bổ và bảo vệ rừng theo kế hoạch của tỉnh và huyện giao.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đổi mới hình thức quản lý, thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, từ 1986 - 1990 các nông lâm trường được thành lập và tách ra từ Lâm trường Phúc Khánh gồm: Lâm trường Yên Lập, Lâm trường A Mai, Nông truờng quốc doanh Ngọc Đồng, Nông trường quốc doanh Hưng Long. Với chức năng nhiệm vụ được giao các NLT đã thực hiện tốt vai trò của mình trong khai thác, trồng rừng và phát triển nông lâm nghiệp góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế huyện nhà.
Tiếp tục thực hiện chủ trương sắp xếp, đổi mới các NLT quốc doanh, xóa bỏ hoàn toàn bao cấp trong sản xuất NLN, các NLT tự hạch toán kinh doanh độc lập theo cơ chế thị trường, do vậy quy mô SXKD được thu hẹp, từ 1991 đến 1995 các NLT giao bớt diện tích đất cho các địa phương quản lý. Đến năm 1998, các NLT đã được giao đất ổn định và UBND tỉnh đã cấp GCNQSDĐ cho 2 lâm truờng: Yên Lập, A Mai. Từ đó đến nay, các NLT có kế hoạch quản lý chặt chẽ hơn quỹ đất được giao để phát triển NLN theo đúng chức năng và nhiệm vụ của mình, đã đóng góp không nhỏ vào giá trị sản xuất nông lâm nghiệp trong phát triển kinh tế của toàn huyện, tạo công ăn việc làm cho người lao động, thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, tăng độ che phủ rừng toàn huyện lên khoảng 60%.
Tuy nhiên, trong thực tế sử dụng đất của các NLT trên địa bàn huyện còn nhiều tồn tại và bất cập. Đó là:
- Trong quản lý và sử dụng đất:
+ Tình hình tranh chấp đất đai giữa nhân dân các xã với các NLT đã và đang xảy ra có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp hơn, nhất là trong năm 2008 UBND huyện đã chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tập trung giải quyết rất nhiều vụ tranh chấp xảy ra trên địa bàn các xã: Lương Sơn, Phúc Khánh, Ngọc Lập, Ngọc Đồng.
+ Cấp trùng GCNQSDĐ giữa đất của các Công ty lâm nghiệp thuộc thẩm quyền của UBND tỉnh với GCNQSDĐ của các hộ gia đình, cá nhân thuộc thẩm quyền của UBND huyện.
+ Một số hộ dân người địa phương đã ở và canh tác lâu đời nhưng đến nay các hộ vẫn chưa được cấp GCNQSDĐ do nằm trên phần đất các NLT đã được giao và cấp GCNQSDĐ trong khi chưa được đền bù giải phóng mặt bằng cũng như tái định cư theo quy định của pháp luật.
+ Các NLT trước đây đã thực hiện giao đất cho một số hộ dân trên địa bàn các xã, thị trấn với thời hạn giao từ 30 - 50 năm nhưng nay lại đòi lại đất đã giao dẫn đến tình trạng đơn thư khiếu kiện về đất đai ngày càng nhiều và phức tạp.
+ Tình trạng các NLT tự giao đất cho các hộ gia đình công nhân làm nhà ở, nay đã xây dựng nhà kiên cố nhưng chưa làm thủ tục hợp thức cấp QSD đất theo quy định Luật Đất đai hiện hành.
- Trong Bảo vệ môi truờng sinh thái: (cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp):
Do một số diện tích đất lâm nghiệp của các NLT nằm trong khu vực rừng đầu nguồn có chức năng cung cấp nước cho hệ thống các phai, ngòi, suối của địa phương, trong những năm gần đây các NLT thực hiện trồng và khai thác rừng với biện pháp là khai thác trắng theo chu kỳ khi rừng đến tuổi, nên một số diện tích rừng bị khai thác trắng cộng thêm cường độ kinh doanh rừng ngày một mạnh hơn đã ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước cung cấp cho đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân địa phương, như: khu vực Núi Đỗng, Núi Giường và phai Ngà ảnh hưởng đến cung cấp nước cho đập phai Làng và phai Ngà tưới cho đất ruộng của các thôn Vinh Thịnh, Hòa Bình, Đại Đồng, Xe ngà, Liên An, Đồng An (xã Mỹ Lương); Núi Thuồng, núi Ngựa Lồng cung cấp nước cho Hồ Vỡ, suối Cái (xã Lương Sơn); Khu khe Mãn cung cấp nước cho hồ Dộc Giang (xã Xuân An); khu vực khe Văn, đập Trò (xã Đồng Lạc); khu vực Đồi Vông (xã Phúc Khánh).
- Nguyên nhân của những tồn tại đã nêu ở trên là:
+ Do diện tích đất giao cho các NLT quá lớn, mặt khác công tác quy hoạch chưa chính xác trong khi đó quá trình lập thủ tục trình UBND tỉnh cấp GCNQSDĐ (1998) các NLT không thực hiện việc kiểm tra, rà soát diện tích thực tế đang sử dụng dẫn đến cấp chồng vào cả phần đất do nhân dân địa phương đã sử dụng ổn định từ trước tới nay, diện tích được UBND huyện đã giao, cấp GCNQSD đất, diện tích UBND tỉnh đã quyết định hợp thức cho trại giam Tân Lập từ năm 1997.
+ Quá trình chuyển đổi cơ chế sản xuất kinh doanh của các nông lâm truờng, thiếu vốn trong phát triển sản xuất do vậy phần lớn diện tích đã không đưa vào sử dụng còn để hoang hoá nên nhân dân địa phương đã xâm chiếm sử dụng.
+ Do thay đổi chủ trương, chính sách trong quá trình phát triển các NLT quốc doanh của Đảng và Nhà nước.
+ Do nhu cầu cần đất sản xuất của nhân dân địa phương.
Để tập trung giải quyết dứt điểm và tháo gỡ các tồn tại trên cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Đối với Tổng Công ty Giấy Việt Nam: Cần quy hoạch, đền bù tái định cư cho các hộ dân đã sinh sống lâu đời trên phần đất quy hoạch cho các công ty Lâm nghiệp quản lý. Điều chỉnh quy hoạch đất sản xuất giao lại một phần cho UBND các xã quản lý để giao lại cho các hộ gia đình nông dân thiếu đất sản xuất.
- Đối với các đơn vị NLT: Sắp xếp quy hoạch lại diện tích đất đã được giao quản lý, trả lại diện tích đất sử dụng không hiệu quả giao lại cho địa phương quản lý và sử dụng. Đối với diện tích đất xí nghiệp đã tạm giao cho các hộ công nhân mượn làm nhà ở, nay đã xây nhà kiên cố, đề nghị các NLT phối hợp với UBND các xã nằm trên địa bàn khẩn trương hoàn thiện hồ sơ trình cấp có thẩm quyền thu hồi, giao đất và cấp GCNQSDĐ để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các hộ gia đình công nhân. Các hộ dân đã ở ổn định lâu dài từ trước tới nay nằm trong phần đất của các NLT do việc khoanh định ranh giới không rõ ràng, đề nghị các NLT làm thủ tục trình đơn vị chủ quản và cấp có thẩm quyền phê duyệt trả đất ra và giao lại cho địa phương quản lý.
- Đề nghị UBND tỉnh tố chức hội nghị giải quyết những tồn tại trong quản lý sử dụng đất của các NLT trên địa bàn tỉnh nói chung, huyện Yên Lập nói riêng. Chỉ đạo quy hoạch tổ chức lại sản xuất kinh doanh của các NLT và quyết định thu hồi phần diện tích đất của các NLT chưa sử dụng, sử dụng không hiệu quả để giao lại cho địa phương quản lý và sử dụng góp phần giải quyết tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào các dân tộc thiểu số theo chủ trương chính sách của Nhà nước.
Tác giả bài viết: Đinh Thị Thu Thuỷ - Trưởng phòng TN & MT H. Yên Lập