Nhảy đến nội dung

Tận dụng sử dụng các loại đất

Nghe bài viết Play Pause
Hiện các loại đất thực hiện vượt chỉ tiêu quy hoạch phải kể tới đất trồng lúa nước vượt 10,3%, đất trồng cây lâu năm vượt 10,87% và đất ở vượt 2%. Trong khi các loại đất không đạt chỉ tiêu quy hoạch là đất đất nuôi trồng thủy sản đạt 84,72%, đất lâm nghiệp đạt 96,27%, đất chuyên dùng đạt 94,28% trong đó đất khu công nghiệp đạt 53,8%. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là do chất lượng quy hoạch sử dụng đất của các địa phương hiện nay còn hạn chế, chưa sát thực tiễn.

 
Đất hoang hóa lãng phí


Chỉ tính riêng việc quản lý phát triển các khu công nghiệp, nhiều khu công nghiệp xây dựng đã lâu nhưng không thu hút được đầu tư nên tỷ lệ lấp đầy thấp, đất đai bị hoang hóa, lãng phí. Điển hình như Hưng Yên, Hà Nội, Hải Phòng, Đồng Nai, Long An, Bình Dương. Một số địa phương lại cho xây dựng khu công nghiệp mới trong khi các khu công nghiệp khác ở địa phương có tỷ lệ lấp đầy thấp, điển hình là khu công nghiệp dịch vụ công nghiệp Phước Đông - Bời Lời tại huyện Trảng Bàng Tây Ninh triển khai trong khi khu công nghiệp khác trong huyện mới lấp đầy dưới 10%.


Việc phát triển các khu đô thị mới ở một số thành phố lớn còn phân tán đã tạo nên nhiều khu đất nông nghiệp bị xen kẹt giữa các khu đô thị đã không thể sản xuất nông nghiệp phải bỏ hoang từ nhiều năm nay, gây nên tình trạng lãng phí đất đai rất lớn. Điển hình là tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng... Diện tích đất dành cho việc thu gom và xử lý chất thải còn thiếu. Chỉ có 13/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có bãi chôn lấp rác được thiết kế, xây dựng hợp vệ sinh, còn lại chưa đáp ứng được yêu cầu.


Việc quy hoạch đất lâm nghiệp cũng có những vấn đề phải bàn. Kết quả kiểm kê quỹ đất thuộc phạm vi quy hoạch 3 loại rừng của các địa phương cho thấy, hiện có nhiều địa phương quy hoạch cả diện tích đất khu dân cư, đất sản xuất nông nghiệp và các mục đích chuyên dùng khác, trong đó đất đang sử dụng vào mục đích nông nghiệp là 843.570 ha tại 45 tỉnh, điển hình là Hà Giang, Điện Biên, Yên Bái; sử dụng vào mục đích phi nông nghiệp là 368.883 ha tại 36 tỉnh, điển hình là Quảng Ninh, Nghệ An. Một số địa phương đã có bộ phận đáng kể diện tích đất lâm nghiệp đang có rừng nằm ngoài vi phạm quy hoạch lâm nghiệp. Điển hình là Bình Phước, Yên Bái, Bắc Giang, Thái Nguyên...
 
Điều chỉnh chính sách hỗ trợ người làm nông nghiệp


Theo Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Quản lý đất đai Lê Thanh Khuyến, Việc quản lý, sử dụng đất lâm nghiệp còn tồn tại những bất cập là do quy định về thẩm quyền chuyển mục đích sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng rừng còn có sự khác nhau giữa Luật Đất đai và Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, gây khó khăn cho các địa phương.


Việc giao đất, giao rừng và cấp Giấy chứng nhận đối với đất nông nghiệp ở các địa phương nhìn chung còn chậm do việc giao đất giao rừng thực hiện theo hai hệ thống pháp luật khác nhau. Đặc biệt, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm, sử dụng đất không đúng mục tiêu, không hiệu quả hoặc không sử dụng đất được giao, không chuyển sang thuê đất hoặc không nộp tiền sử dụng đất tại các nông trường, lâm trường hiện nay rất phổ biến.


Việc dành quỹ đất nông nghiệp cho công ích của xã ở nhiều địa phương vượt quá quy định. Pháp luật đất đai quy định mỗi xã chỉ để lại không quá 5% đất nông nghiệp dành cho công ích. Tuy nhiên hiện còn 21 tỉnh, thành phố để lại quỹ đất này quá tỷ lệ cho phép. Điển hình là Đà Nẵng 15,46%, Hà Nội 13,94%, Bắc Ninh 11,7%, Thừa Thiên - Huế 11,7%, Quảng Ninh 11,59%, Hà Tĩnh 11,10%.


Hàng loạt vấn đề đặt ra từ những đánh giá việc thực hiện các quy định về chế độ sử dụng một số loại đất, như đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất phát triển khu công nghiệp... là căn cứ cần thiết để kịp thời xây dựng quy hoạch sử dụng đất của cả nước đến 2020 và các địa phương điều chỉnh khi xây dựng quy hoạch sử dụng đất địa phương mình.


Bộ TN&MT đã kiến nghị Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ TN&MT, Bộ Tài chính nghiên cứu đề xuất cơ chế chính sách hỗ trợ cho người làm nông nghiệp, nhất là trồng lúa nước. Hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý, bảo vệ đất trồng lúa nước gắn với việc bảo vệ đất trồng cây hàng năm khác có nguồn gốc từ đất trồng lúa nước hoặc có đủ khả năng trồng lúa nước để vừa bảo đảm an toàn lương thực, vừa tạo điều kiện cho người nông dân chủ động hơn trong việc lựa chọn các loại cây trồng phù hợp với kinh tế thị trường.


Tận dụng triệt để, khai thác tối ưu và bền vững quỹ đất để thực sự trở thành nguồn lực phát triển kinh tế xã hội.

Tác giả bài viết:  Trung tâm Lưu trữ và Thông tin