Nhảy đến nội dung

Phát triển đô thị bền vững

Nghe bài viết Play Pause

Cho đến nay, cả nước có 708 đô thị, trong đó có 2 đô thị đặc biệt, 2 đô thị loại 1; 14 đô thị loại 2; 20 đô thị loại III; 50 đô thị loại IV và 617 đô thị loại V. Theo phân cấp hành chính có 5 thành phố trực thuộc Trung ương, 82 thành phố, thị xã thuộc tỉnh và số còn lại là thị trấn. Đó là kết quả của thời kỳ chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cùng các chính sách mở cửa, chính sách mới về nhà đất và sự quan tâm của Nhà nước đối với công tác quy hoạch, đầu tư cải tạo và xây dựng cơ sở hạ tầng giúp cho các đô thị nước ta phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng, đáp ứng sự phát triển KT-XH. Các đô thị đã đảm nhiệm được vai trò là trung tâm phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, các ngành nghề mới, trung tâm phát triển và chuyển giao công nghệ trong vùng; trung tâm giao lưu thương mại trong và ngoài nước; thu hút đầu tư nước ngoài, phát triển kinh tế đối ngoại; phát triển văn hoá giáo dục, phát triển nội lực, nâng cao đầu tư trong nước; giữ vai trò quan trọng trong tăng thu ngân sách nhà nước, đảm bảo an ninh Quốc phòng. Tuy nhiên với tốc độ đô thị hoá như hiện nay, việc quản lý còn nhiều bất cập, cần được nghiên cứu giải quyết. Trình độ và năng lực quản lý và phát triển đô thị còn thấp so với yêu cầu trong khi nhà nước phải chi trả để nuôi bộ máy quản lý của các đô thị đó là rất lớn. Tình trạng đầu tư tràn lan, nhất là cơ sở hạ tầng đô thị, nhằm đạt các tiêu chí của phân loại đô thị nhưng về hiệu quả chưa thực sự phục vụ nhu cầu của đô thị. Về quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở phần lớn đô thị Việt Nam đều chậm so với phát triển kinh tế xã hội đô thị, chưa lồng ghép quy hoạch bảo vệ môi trường. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thiếu đồng bộ, kinh phí đầu tư chủ yếu vẫn trông chờ vào ngân sách Nhà nước và các nguồn tài trợ từ nước ngoài, trong 2 năm trở lại đây có thêm nguồn lực tài chính từ đấu giá quyền sử dụng đất, đổi đất lấy hạ tầng. Quá trình xây dựng các dự án phát triển đô thị, đặc biệt là các dự án xây dựng công trình hạ tầng kỹ thuật diễn ra còn chậm và khả năng hội nhập quốc tế chưa cao. Hiện cả nước đã có khoảng 100 khu công nghiệp tập trung và khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu đang hoạt động. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất đều nằm trong các khu phát triển đô thị nhưng hơn 70% các khu này chưa tổ chức và vận hành hệ thống xử lý nước thải. Nhìn chung phát triển đô thị và đô thị hoá chưa cân đối, vùng chậm phát triển chiếm đến 82% tổng diện tích đất đô thị trong khi chỉ có 18% diện tích thuộc vùng đô thị phát triển. Tình trạng phát triển đô thị và đô thị hoá hiện nay chưa thể hiện rõ bản sắc địa phương và đặc điểm khí hậu vùng, miền, tạo sự cách biệt giữa đô thị và nông thôn. Về tài chính, đô thị cũng chưa kích thích và huy động được sự tham gia tích cực của khối kinh tế tư nhân và từ cộng đồng do nhận thức về phát triển đô thị và đô thị hoá còn có mức độ. Nhiều nơi đô thị hoá tạo nên hình ảnh phát triển đô thị lộn xộn, thiếu quản lý. Sự phát triển kinh tế xã hội cùng như quá trình đô thị hoá đang tạo nên những cơ hội cũng như những thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để để xây dựng đô thị, diện tích cây xanh và mặt nước bị thu hẹp, nhu cầu sản xuất, dịch vụ ngày càng tăng làm suy thoái nguồn tài nguyên nước. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị bị quá tải gây nên hiện tượng tắc nghẽn giao thông, úng ngập và vệ sinh môi trường bị ảnh hưởng. Năng lực thu gom xử lý chất thải rắn còn thấp kém, trung bình chỉ đạt khoảng 60-70%, đặc biệt là các chất thải nguy hại chưa được thu gom xử lý đúng quy định. Sự bùng nổ giao thông cơ giới gây ô nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn nghiêm trọng. Dân số đô thị hiện chiếm 26% tổng số dân trong cả nước. Dòng người di dân từ nông thôn ra thành thị tìm việc làm gây nên sự quá tải cho các cơ sở hạ tầng xã hội, góp phần tạo ra nhiều thách thức về trật tự an toàn xã hội. Mặt khác còn tạo ra ra áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường trong điều kiện nhận thức của người dân còn thấp, khoảng cách giàu nghèo ngày càng gia tăng. Vấn đề nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập thấp vẫn đang là vấn đề bức xúc của toàn xã hội. Một số doanh nghiệp sản xuất, các nhà đầu tư chỉ quan tâm chú trọng phát triển kinh tế mà chưa quan tâm đến sức khoẻ của người dân và công tác bảo vệ môi trường. Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm trong quản lý đô thị, bảo vệ, phòng chống ô nhiễm, suy thoái môi trường còn hạn chế. Để phát triển đô thị một cách bền vững, trong thời gian tới cần quan tâm thực hiện tốt một số hoạt động sau: 1- Rà soát, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật, hoàn thiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn về hạ tầng kỹ thuật đô thị và bảo vệ môi trường gắn liền với việc đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức của cộng đồng về phát triển đô thị bền vững 2- Rà soát lại quy hoạch tổng thể nhằm đảm bảo phát triển các đô thị bền vững. Điều chỉnh, bổ sung các quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, khu công nghiệp, các điểm dân cư nông thôn, đảm bảo quy hoạch phải đi trước một bước. Chú trọng các nội dung quy hoạch bảo vệ môi trường, khai thác sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Thực hiện nghiêm việc đánh giá, xác định các yếu tố ảnh hưởng đến môi trường khi thực hiện các quy hoạch xây dựng, đề xuất các giải pháp, kế hoạch, lộ trình thực hiện quy hoạch xây dựng kết hợp bảo vệ môi trường. Cải tạo và làm mới đồng bộ các khu ở hiện có trong các đô thị, bảo tồn các khu đô thị cổ, các di tích lịch sử văn hoá, đồng thời cân đối đáp ứng đủ nhu cầu xây dựng phát triển các khu ở mới cho dân cư đô thị, đảm bảo bảo đủ diện tích ở và môi trường sống tốt cho người dân. Trong các khu dân cư cần tổ chức liên kết hợp lý mạng lưới dịch vụ ngoài nhà ở đáp ứng nhu cầu của người dân theo định kỳ dài hạn và ngắn hạn. Phân bổ, kết nối và hoàn thiện các trung tâm công cộng, các khu nghỉ ngơi vui chơi giải trí và hệ thống cây xanh, mặt nước trong đô thị để tạo các không gian mở, tạo cảnh quan chung và và điều hoà môi trường không khí cho đô thị. Phấn đấu chỉ tiêu diện tích cây xanh/đầu người đạt 12-15 m2 đối với đô thị đặc biệt; 10-12 m2 đối với đô thị loại 1 và loại 2; 9-10 m2 đối với đô thị loại 3 và loại 4; 8-10 m2 đối với đô thị loại 5. 3- Xây dựng cơ chế tài chính đô thị cho phù hợp với các kế hoạch phát triển KTXH. Trong đó hỗ trợ tài chính thoả đáng cho việc thực hiện các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm và xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng tại các khu dân cư, khu công nghiệp. Từng bước giải quyết có hiệu quả tình trạng úng ngập, ô nhiễm môi trường do rác thải, khí thải, nước thải, nghĩa trang. Thực hiện công tác quy hoạch xây dựng và quản lý phát triển đồng bộ hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật thiết yếu cho các làng nghề thủ công. Nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ tiên tiến thích hợp, thân thiện với môi trường để thu gom xử lý chất thải rắn và nước thải công nghiệp, sinh hoạt. 4- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý đô thị, bảo vệ phòng chống suy thoái, ô nhiễm môi trường.

Tác giả bài viết:  Thái Toàn