Luật Đất đai năm 2013 đã hạn chế được những tồn tại của Luật Đất đai năm 2003 với những điểm mới hết sức quan trọng và phù hợp với thực tiễn. So với Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai năm 2013 có 14 chương với 212 điều, tăng 7 chương và 66 điều, với 11 điểm mới nổi bật.
Luật Đất đai năm 2013 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng, khẳng định quyền của Nhà nước, quan tâm sâu sát, gắn chặt với quyền và lợi ích của tầng lớp nhân dân, như: Nội dung quản lý nhà nước về đất đai (Điều 22), ngoài 13 nội dung theo quy định của Luật đất đai 2003, Luật đất đai năm 2013 có bổ sung các nội dung về xây dựng hệ thống thông tin đất đai, phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai nhằm tăng cường việc phổ biến luật đến tầng lớp nhân dân; Quy định cụ thể về những bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất (Điều 26), như bảo hộ quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất hợp pháp, cấp Giấy chứng nhận nếu đủ điều kiện theo quy định, bồi thường, hỗ trợ cho người có đất thu hồi theo quy định; Quy định trách nhiệm của Nhà nước về đất ở, đất sản xuất đối với đồng bào dân tộc thiểu số (Điều 27); Quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc cung cấp thông tin đất đai cho người dân (Điều 28), đây là những quy định rất quan trọng nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao nhu cầu về thông tin đất đai để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau của các tổ chức và cá nhân; việc giao đất nông nghiệp chỉ có thời hạn 20 năm, nay tăng lên 50 năm là tạo điều kiện cho người dân gắn bó với đồng ruộng, yên tâm sản xuất.
Trong việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất cũng được quy định cụ thể, chi tiết hơn khi dùng tới 2 mục, 21 điều để quy định. Những quy định đều rất cụ thể, chi tiết và sát thực với người được giao quyền sử dụng đất. Điển hình như việc quy định cụ thể về nguyên tắc bồi thường về đất: Người sử dụng đất khi Nhà nước thu hồi đất nếu đủ điều kiện thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng với loại đất bị thu hồi, nếu không có đất thì được bồi thường bằng tiền theo giá đất cụ thể của loại đất thu hồi. Các trường hợp được bồi thường cũng được bổ sung và giá đất bồi thường được xác định theo mục đích sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất.
Về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, bổ sung quy định quyền và nghĩa vụ của nhóm người sử dụng đất mà có chung quyền sử dụng đất (khoản 2 Điều 167), nhóm người sử dụng đất gồm hộ gia đình, cá nhân thì có quyền và nghĩa vụ như quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân. Trường hợp trong nhóm có thành viên là tổ chức kinh tế thì có quyền và nghĩa vụ như quyền và nghĩa vụ của tổ chức kinh tế, trường hợp quyền sử dụng đất phân chia được theo phần cho từng thành viên trong nhóm, nếu từng thành viên của nhóm muốn thực hiện quyền đối với phần quyền sử dụng đất của mình thì phải thực hiện thủ tục tách thửa theo quy định, làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận và được thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất theo quy định. Trường hợp không chia được theo phần thì ủy quyền cho người đại diện để thực hiện.
Luật cũng quy định thêm cụ thể các trường hợp phải công chứng, chứng thực hợp đồng, văn bản thực hiện các quyền của người sử dụng đất (khoản 3 Điều 167), Hợp đồng chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực, trừ trường hợp kinh doanh bất động sản. Hợp đồng cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, tài sản gắn liền với đất mà một bên hoặc các bên tham gia giao dịch là tổ chức hoạt động kinh doanh bất động sản được công chứng hoặc chứng thực theo yêu cầu của các bên. Văn bản về thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất được công chứng hoặc chứng thực theo quy định của pháp luật về dân sự. Việc công chứng thực hiện tại các tổ chức hành nghề công chứng, việc chứng thực thực hiện tại ủy ban nhân dân cấp xã.
Luật cũng bổ sung quy định về quyền sử dụng hạn chế đối với thửa đất liền kề (Điều 171), việc xác lập quyền đối với trường hợp này được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự và phải thực hiện đăng ký theo quy định của Luật đất đai năm 2013.
Luật cũng quy định về quyền được lựa chọn hình thức trả tiền thuê đất, được lựa chọn hình thức thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm hoặc thuê đất trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê (Điều 172). Nội dung điều này được quy định trên cơ sở kế thừa nội dung Điều 108 của Luật đất đai năm 2003 cho phù hợp với chủ trương chuyển đa số các trường hợp giao đất sang thuê đất.
Về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được quy định tại Điều 179. Nội dung Điều này kế thừa quy định Điều 113 của Luật đất đai năm 2003, đồng thời có các sửa đổi, bổ sung các nội dung Quy định về quyền và nghĩa vụ của hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất được Nhà nước giao đất nông nghiệp trong hạn mức, đất nhận chuyển đổi, nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho, nhận thừa kế, đất giao có thu tiền sử dụng đất, công nhận quyền sử dụng đất và đất thuê trả tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê được chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; trường hợp đất thuộc diện thu hồi để đầu tư dự án có mục đích sản xuất, kinh doanh hoặc xây dựng kinh doanh nhà ở thì có quyền tự đầu tư trên đất hoặc cho thuê quyền sử dụng đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất. Quy định hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm được bán tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê khi đủ điều kiện theo quy định của pháp luật” và “cho thuê tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất thuê theo quy định của pháp luật dân sự” (Điều 179); bổ sung quy định về quyền của hộ gia đình, cá nhân thuê lại đất trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất (khoản 3 Điều 179).
Tác giả bài viết: Vũ Văn Thủy - Giám đốc Sở