* Nhiều yếu tố gây nguy cơ ngập, lụt
Trong thời gian qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì xây dựng, định kỳ cập nhật và công bố Kịch bản biến đổi khí hậu, cập nhật nhất là phiên bản năm 2020. Kịch bản biến đổi khí hậu cập nhật được xây dựng dựa trên các công bố mới nhất của Ban liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (IPCC).
Năm 2022, Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố Báo cáo đánh giá khí hậu quốc gia với những thông tin cơ bản về đặc điểm, hiện trạng, mức độ thay đổi của khí hậu, khí hậu cực đoan, xu thế và tác động của biến đổi khí hậu, đánh giá sự phù hợp và mức độ sử dụng kịch bản biến đổi khí hậu cũng như hiệu quả của các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam.
Kịch bản biến đổi khí hậu, Báo cáo đánh giá khí hậu quốc gia đã cung cấp thông tin đánh giá tình hình tác động biến đổi khí hậu gây ngập, lụt vùng đồng bằng sông Cửu Long. Theo đó, nguy cơ ngập do nước biển dâng sẽ có thể gia tăng do cộng hưởng của các yếu tố khác như nâng hạ địa chất, thay đổi địa hình, sụt lún, thuỷ triều, nước dâng do bão. Hiện tượng sụt lún đất đang diễn ra ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh với nền địa hình thấp nhất trên cả nước, do 2 nhóm nguyên nhân chính: Nhóm nguyên nhân tự nhiên như dịch chuyển các mảng kiến tạo, quá trình nén chặt của các lớp trầm tích trẻ, hoạt động tân kiến tạo, quá trình bóc mòn, bồi tụ bề mặt địa hình; Nhóm nguyên nhân do hoạt động con người tác động như khai thác nước ngầm quá mức, quá trình đô thị hoá tăng tải trọng trên nền đất yếu, rung động do các hoạt động giao thông vận tải.
Tình trạng sụt lún ở một số khu vực tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long diễn ra rất nghiêm trọng do nhiều nguyên nhân với quy mô khác nhau. Theo số liệu quan trắc của Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường tại 339 điểm quan trắc ở Thành phố Hồ Chí Minh và Đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2014, 2015, 2017 so sánh với số liệu đo đạc các mốc đo đạc năm 2005 cho thấy, sụt lún đất xảy ra ở 306 điểm trong khi ở 33 điểm còn lại không xảy ra sụt lún mà có xu thế nâng lên.
Khu vực đồng bằng sông Cửu Long có nguy cơ lún đến 5cm bao gồm các khu vực phía Bắc thành phố Cần Thơ và một số khu vực ven bờ sông Hậu tỉnh Sóc Trăng do nguyên nhân tự nhiên bao gồm dịch chuyển mảng kiến tạo và quá trình nền đất cố kết tự mất nước và co nén tự nhiên của lớp trầm tích Holocen. Khu vực phủ trùm phần lớn tỉnh Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau có giá trị lún lớn hơn 5cm trong vòng 10 năm có nguyên nhân chính là dịch chuyển các mảng kiến tạo, quá trình nền đất cố kết tự mất nước và co nén tự nhiên của lớp trầm tích Holocen và do khai thác nước ngầm. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cà Mau, thành phố Cần Thơ, thành phố Bạc Liêu và một số khu vực khác có các phiễu lún với tốc độ lớn hơn 10cm trong vòng 10 năm do cả hai nhóm nguyên nhân tự nhiên và do các hoạt động của con người. Tại trung tâm thành phố Cà Mau, Bạc Liêu, Cần Thơ hình thành các phiễu lún với tốc độ cao trung bình từ 20cm đến 50cm trong vòng 10 năm.
Tổng mức sụt lún trung bình trong giai đoạn từ 2005 đến năm 2017 cho toàn vùng là 12,3cm (từ 3,45 cm đến 23,27 cm). Tốc độ sụt lún trung bình hàng năm cho toàn khu vực trong giai đoạn này là 1,07cm/năm (từ 0,38cm đến 1,99 cm/năm).
Ở đồng bằng sông Cửu Long, nguyên nhân gây sụt lún đất là quá trình nén chặt tự nhiên các lớp trầm tích mềm. Sụt lún đất nhanh chóng cũng đến từ quá trình nén chặt trầm tích kết hợp với khai thác nước ngầm ở các lớp dưới mặt đất. Nguyên nhân là do nước ngầm là nguồn nước chủ yếu phục vụ nuôi trồng thuỷ sản cũng như nguồn nước cấp cho sinh hoạt (đô thị, nông thôn) và công nghiệp. Nguồn nước này thường được lấy từ các tầng chứa nước sâu và chứa nước "cổ", không bị ảnh hưởng bởi hạn hán và không có mầm bệnh hay nguồn bệnh, vì vậy so với nước mặt thì nguồn nước này rất hấp dẫn đối với người dùng. Những tầng chứa nước này thường không được làm đầy một cách tự nhiên và hiện đồng bằng sông Cửu Long chưa áp dụng phương pháp bổ cập nước ngầm nhân tạo.

Cần nhiều giải pháp giúp ĐBSCL ứng phó với BĐKH
* Giải pháp ứng phó
Đồng bằng sông Cửu Long là đồng bằng non trẻ, đặc biệt dễ bị tổn thương do tác động của biến đổi khí hậu tại Việt Nam. Do đó, trong thời gian qua đồng bằng sông Cửu Long đã được Đảng, Quốc hội, Chính phủ ưu tiên tập trung đầu tư cho các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu. Thực hiện hiệu quả các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu trong thời gian tới cần tiếp tục thực hiện các giải pháp phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu theo Nghị quyết 120/NQ-CP của Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu, đặc biệt là Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Triển khai Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Ban Chấp hành Trung ương về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Chính phủ đã xây dựng và ban hành Chương trình hành động của Chính phủ tại Nghị quyết số 78/NQ-CP ngày 18/6/2022 với các nhiệm vụ, giải pháp rất cụ thể.
Trên cơ sở đó, một số nhiệm vụ và giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu cho khu vực đồng bằng sông Cửu Long cần được chú trọng, bao gồm: Tập trung sản xuất nông nghiệp chống chịu, thích ứng với biến đổi khí hậu; nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp hiệu quả cao, tối ưu hoá giá trị nông nghiệp; phát triển công nghệ về giống, công nghiệp chế biến, bảo quản nông sản, thuỷ sản.
Chính phủ chủ trương đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá, xây dựng mạng lưới đường bộ cao tốc, đường thuỷ nội địa kết nối mạng lưới đô thị vùng; Chuyển đổi cơ cấu kinh tế phù hợp với từng vùng sinh thái; chủ động "sống chung với lũ và hạn hán, xâm nhập mặn", khai thác lợi thế để phát triển bền vững; Xây dựng chiến lược tổng thể bảo vệ và sử dụng bền vững nguồn nước sông Mê Công; kiểm soát khai thác nước ngầm và tình trạng sụt lún đất do khai thác nước ngầm; xây dựng hệ thống công trình trữ nước mùa mưa, điều hoà nguồn nước cho mùa khô để giảm thiểu tác động của hạn hán và xâm nhập mặn.
ĐBSCL cần xây dựng, nâng cấp và hoàn thiện hệ thống đê biển, đê bao, bờ biển, công trình kiểm soát lũ, mặn, hệ thống thuỷ lợi nội đồng phục vụ chuyển đổi, phát triển nông nghiệp bền vững; Xây dựng, củng cố công trình phòng chống sạt lở bờ sông, bờ biển, bảo đảm an toàn cho dân cư và cơ sở hạ tầng; phát triển rừng ngập mặn và các đa dạng sinh học ven biển gắn với bảo đảm đa dạng sinh học và sinh kế bền vững; Hoàn thiện chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ; củng cố, nâng cấp công trình kết hợp sơ tán dân phòng chống lũ, bão.
Tác giả bài viết: Thúy Nhi
Nguồn tin: Theo công thông tin điện từ Bộ TN&MT